Photobucket

HÌNH ẢNH MỖI TUẦN (IMAGE OF THE WEEK)

BỆNH SÁN LÁ PHỔI.

(PARAGONIMIASIS).

Nguồn (Source): www.nejm.org

Photobucket

HÌNH ẢNH MỖI TUẦN (IMAGE OF THE WEEK)

CHỨNG BỆNH CHÂN MADURA

(MADURA FOOT).

Nguồn (Source): www.nejm.org

Photobucket

HÌNH ẢNH MỖI TUẦN (IMAGE OF THE WEEK)

MỘT BỘ PHẬN NGỰC GIẢ BIẾN MẤT TRONG KHI TẬP MÔN THỂ DỤC PILATES.

(DISAPPEARANCE OF A BREAST PROSTHESIS DURING PILATES).

Nguồn (Source): www.nejm.org

Photobucket

HÌNH ẢNH MỖI TUẦN (IMAGE OF THE WEEK).

MỘT VIÊN ĐẠN NẰM TRONG ĐẦU.

(A HEAD SHOT).

Nguồn (Source): www.nejm.org

Photobucket

HÌNH ẢNH MỖI TUẦN (IMAGE OF THE WEEK)

TÌNH TRẠNG MÙ SAU KHI TIÊM MỠ

(BLINDNESS AFTER FAT INJECTION)

Nguồn (Source): www.nejm.org

Photobucket

HÌNH ẢNH MỖI TUẦN (IMAGE OF THE WEEK)

BỆNH GÚT CÓ SỎI.

(TOPHACEOUS GOUT).

Nguồn (Source): www.nejm.org

Photobucket

HÌNH ẢNH MỖI TUẦN (IMAGE OF THE WEEK)

BỆNH PHÌNH TRƯỚNG XƯƠNG KHỚP

(HYPERTROPHIC PULMONARY OSTEOARTHROPATHY) .

Nguồn (Source): www.nejm.org

Tuesday, January 31, 2012

CÁC LOẠI THUỐC KHÁNG SINH (ANTIBIOTICS)

Antibiotic Resistance

Antibiotic resistance is the ability of a microorganism to withstand the effects of an antibiotic.  Antibiotic resistance evolves naturally via natural selection through random mutation, but it could also be engineered by applying an evolutionary stress on a population.  Once such a gene is generated, bacteria can then transfer the genetic information in a horizontal fashion (between individuals) by plasmid exchange (plasmid: A circular, double-stranded unit of DNA that replicates within a cell independently of the chromosomal DNA. Plasmids are most often found in bacteria and are used in recombinant DNA research to transfer genes between cells.)  If a bacterium carries several resistance genes, it is called multiresistant or, informally, a superbug.  The antibiotic action is an environmental pressure; those bacteria which have a mutation allowing them to survive will live on to reproduce.  They will then pass this trait to their offspring, which will be a fully resistant generation.

Bacteria, like all living organisms, change over time in response to environmental challenges. Because of the widespread use and misuse of antibiotics, bacteria are constantly exposed to these drugs. Although many bacteria die when exposed to antibiotics, some develop resistance to the drugs' effects. For example, 50 years ago, Staphylococcus aureus (a common cause of skin infections) was very sensitive to penicillin. But over time, strains of this bacteria developed an enzyme able to break down penicillin, making the drug ineffective. Researchers responded by developing a form of penicillin that the enzyme could not break down, but after a few years, the bacteria adapted and became resistant to this modified penicillin. Other bacteria have also developed resistance to antibiotics.

Medical research continues to develop drugs to combat bacteria. But patients and doctors can help prevent the development of resistance in bacteria. Taking antibiotics only when necessary can help. That is, people should take antibiotics only for infections caused by bacteria, not for those caused by viruses such as a cold or the flu. Also, taking antibiotics for the complete time prescribed helps limit the development of resistance.





CÁC LOẠI THUỐC KHÁNG SINH (ANTIBIOTICS) - Do LQT Biên Dịch


TÍNH NĂNG ĐỀ KHÁNG THUỐC KHÁNG SINH

Tính năng đề kháng thuốc kháng sinh (antibiotic resistance) là khả năng của một vi sinh vật chống lại những ảnh hưởng của một loại thuốc kháng sinh.  Tính năng đề kháng thuốc kháng sinh tiến hóa một cách tự nhiên theo sự chọn lọc tự nhiên (natural selection) bằng sự đột biến gen ngẫu nhiên, nhưng nó cũng có thể được thực hiện bằng việc gây sức ép tiến hóa lên một quần thể vi sinh vật.  Sau khi loại gen này được tạo ra, vi khuẩn có thể truyền thông tin di truyền theo chiều ngang (giữa các vi khuẩn) bằng cách trao đổi plasmit (plasmid: một mẫu DNA xoắn kép mạch vòng mà có thể nhân đôi trong tế bào hoàn toàn độc lập với DNA tạo nên nhiễm sắc thể.  Plasmit thường được tìm thấy ở vi khuẩn và được sử dụng trong nghiên cứu DNA tái tổ hợp để di chuyển gen giữa các tế bào).  Nếu một loại vi khuẩn mang một số gen có tính đề kháng, nó được gọi là đa đề kháng, hoặc gọi nôm na là, siêu khuẩn.  Tác dụng kháng sinh là một một áp lực của môi trường; do đó những loại vi khuẩn mà có sự đột biến gen sẽ cho phép chúng tồn tại và tiếp tục sản sinh.  Sau đó chúng sẽ di truyền đặc điểm này cho thế hệ sau, mà sẽ là một thế hệ có tính năng đề kháng đầy đủ.

Vi khuẩn, cũng giống như tất cả mọi sinh vật sống, thay đổi theo thời gian để thích ứng với những thay đổi của môi trường. Do việc sử dụng tràn lan và lạm dụng thuốc kháng sinh, nên vi khuẩn thường xuyên tiếp xúc với các loại thuốc này. Mặc dù nhiều vi khuẩn sẽ bị tiêu diệt khi tiếp xúc với kháng sinh, nhưng cũng có một vài loại phát triển tính năng đề kháng lại tác dụng của các loại thuốc. Ví dụ, cách đây 50 năm, vi khuẩn gram-dương Staphylococcus aureus (nguyên nhân phổ biến gây ra các nhiễm trùng da) rất nhạy cảm với penicillin, nhưng theo thời gian, các chủng vi khuẩn này có khuynh hướng phát triển một loại enzyme có khả năng phân hủy penicillin, làm cho thuốc mất tác dụng. Các nhà nghiên cứu đối phó lại bằng cách phát triển một dạng penicillin mà loại enzyme này không thể phân hủy, nhưng sau một vài năm,  vi khuẩn đã thích ứng và trở nên đề kháng lại thuốc penicillin được cải tiến này (tình trạng lờn thuốc). Các loại vi khuẩn khác cũng đã phát triển tính năng đề kháng lại các loại kháng sinh.

Nghiên cứu y học sẽ  tiếp tục phát triển các loại thuốc để chống vi khuẩn. Nhưng các bệnh nhân và các bác sĩ có thể giúp ngăn ngừa sự phát triển tính năng đề kháng của vi khuẩn. Dùng thuốc kháng sinh chỉ khi nào thực sự cần thiết mới có thể giúp ích. Đó là, mọi người nên dùng các loại thuốc kháng sinh chỉ khi bị nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra, không nên dùng cho những trường hợp nhiễm bệnh do các loại virut như cảm lạnh hoặc cảm cúm gây ra. Ngoài ra, việc dùng thuốc kháng sinh được hoàn tất theo thời gian quy định cũng giúp hạn chế được sự phát triển tính năng đề kháng ở vi khuẩn.






CÁC LOẠI THUỐC KHÁNG SINH (ANTIBIOTICS) - Do LQT Biên Dịch



Các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) có tác dụng tiêu diệt các loại vi sinh vật hoặc làm ngưng quá trình sản sinh của chúng, cho phép hệ thống phòng thủ tự nhiên của cơ thể loại bỏ các loại vi sinh vật này.


Cách sử dụng phần mục lục: Nếu quý vị muốn đọc trang tiếng anh, xin bấm vào dòng chữ tiếng Anh.  Nếu quý vị muốn đọc trang tiếng Việt, xin bấm vào dòng chữ tiếng Việt.


Lưu ý: Các kiến thức y học dưới đây chỉ mang tính chất tham khảo, không nên được sử dụng trong các trường hợp cấp cứu, chẩn đoán, hoặc điều trị cho các trường hợp bệnh.  Các trường hợp bệnh nên được chẩn đoán và điều trị bởi bác sĩ y khoa có giấy phép hành nghề.  Hãy gọi cho số điện thoại khẩn cấp ở địa phương (chẳng hạn như 911) cho tất cả các trường hợp cấp cứu y tế.





VI. SOURCE
     NGUỒN



Saturday, January 28, 2012

CÁC LOẠI THUỐC KHÁNG SINH (ANTIBIOTICS) - Do LQT Biên Dịch

-      Mặc dù các bác sĩ muốn sử dụng các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) để điều trị cho các bệnh nhiễm trùng đặc biệt do vi khuẩn gây ra, nhưng đôi khi các bác sĩ cũng có thể bắt đầu cho sử dụng thuốc kháng sinh mà không cần phải đợi các kết quả xét nghiệm nhận dạng vi khuẩn cụ thể.
-      Vi khuẩn có thể phát triển tính năng đề kháng đối với tác dụng của các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh).
-      Sử dụng thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) theo chỉ dẫn, thậm chí sau khi các triệu chứng đã biến mất, là rất cần thiết để chữa khỏi hẳn sự nhiễm trùng và ngăn ngừa sự phát triển tính năng đề kháng trong các vi khuẩn.
-      Các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) có thể có tác dụng phụ, chẳng hạn như đau dạ dày, tiêu chảy, và nhiễm nấm men âm đạo ở phụ nữ (vaginal yeast infections).
-      Một vài người bị dị ứng với một số loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh).

Kháng sinh (kháng khuẩn) là các loại thuốc có nguồn gốc hoàn toàn hoặc một phần từ vi khuẩn hoặc các loại nấm mốc, và được dùng để chữa trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra. Chúng không có tác dụng chống lại các bệnh nhiễm trùng do virút và nấm gây ra. Các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) có tác dụng tiêu diệt các loại vi sinh vật hoặc làm ngưng quá trình sản sinh của chúng, cho phép hệ thống phòng thủ tự nhiên của cơ thể loại bỏ các loại vi sinh vật này.

LỰA CHỌN THUỐC KHÁNG SINH

Mỗi loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) chỉ có tác dụng chống lại một số loại vi khuẩn nhất định. Trong việc lựa chọn loại thuốc kháng sinh để chữa trị cho người bị nhiễm trùng, các bác sĩ sẽ dự đoán loại vi khuẩn có khả năng gây ra bệnh. Ví dụ, một số bệnh nhiễm trùng chỉ do một số loại vi khuẩn nhất định gây ra. Nếu như một loại thuốc kháng sinh được dự đoán là có tác dụng chống lại tất cả các loại vi khuẩn, thì không cần thiết phải xét nghiệm thêm nữa.  Nếu tình trạng nhiễm trùng có thể do nhiều loại vi khuẩn khác nhau hoặc một loại vi khuẩn gây ra mà được dự đoán là không bị ảnh hưởng bởi thuốc kháng sinh, thì xét nghiệm sẽ được yêu cầu thực hiện để xác định các loại vi khuẩn gây ra tình trạng nhiễm trùng từ các mẫu máu, nước tiểu, hay mô lấy từ bệnh nhân đó. Các loại vi khuẩn gây nhiễm trùng này sau đó được thử nghiệm tính nhạy cảm với các loại thuốc kháng sinh khác nhau. Kết quả của các xét nghiệm này thường mất từ một đến hai ngày và do đó không thể chỉ dẫn sự lựa chọn ban đầu về việc sử dụng thuốc kháng sinh.

Các loại kháng sinh (thuốc trụ sinh) có hiệu quả trong phòng thí nghiệm thì không nhất thiết sẽ có tác dụng đối với người bị nhiễm bệnh. Hiệu quả của việc điều trị dựa vào mức độ thuốc được hấp thụ vào máu, số lượng thuốc đến được những nơi bị nhiễm trùng, và tốc độ cơ thể bài tiết thuốc, các yếu tố này khác nhau ở từng người, tùy thuộc vào các loại thuốc khác nhau đang dùng, sự hiện diện của một rối loạn khác, và độ tuổi của người đó. Trong việc lựa chọn thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh), các bác sĩ cũng xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tình trạng nhiễm trùng, khả năng gây ra các tác dụng phụ, khả năng gây dị ứng và các phản ứng nghiêm trọng khác của thuốc và giá cả của thuốc.

Sự kết hợp các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) đôi khi cần thiết để điều trị các trường hợp sau:

-      Đối với những bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng, đặc biệt trong suốt những ngày đầu khi mà sự ảnh hưởng của thuốc kháng sinh đối với vi khuẩn chưa được biết rõ.
-      Một số tình trạng nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra mà phát triển một cách nhanh chóng tính năng đề kháng một loại kháng sinh đơn lẻ.
-      Các bệnh nhiễm trùng do nhiều loại vi khuẩn gây ra nếu như mỗi loại vi khuẩn bị ảnh hưởng bởi một loại kháng sinh khác nhau.

CÁC LOẠI THUỐC KHÁNG SINH (THUỐC TRỤ SINH)

Tên thuốc

Tác dụng thông thường

Các tác dụng phụ

Aminoglycosides
Netilmicin
Các nhiễm trùng do vi khuẩn gram-âm (gram-negative bacteria) gây ra, chẳng hạn như  Escherichia coli và các chủng Klebsiella


Giảm thính giác
Chóng mặt
Tổn thương thận

Carbapenems

Chứng hoại tử, nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, nhiễm trùng bụng và đường tiết niệu, các nhiễm trùng do vi khuẩn kháng lại các loại thuốc kháng sinh khác và (ngoại trừ ertapenem), nhiễm khuẩn Pseudomonas

Động kinh, đặc biệt với imipenem
Tình trạng rối loạn tinh thần.

Cephalosporins, 1st generation

Chủ yếu là các nhiễm trùng da và mô mềm
Rối loạn đường tiêu hóa và tiêu chảy
Buồn nôn
Các phản ứng dị ứng

Cephalosporins, 2nd generation

Một vài nhiễm trùng đường hô hấp, và đối với thuốc cefoxitin, dùng cho nhiễm trùng bụng
Rối loạn đường tiêu hóa và tiêu chảy
Buồn nôn
Các phản ứng dị ứng

Cephalosporins, 3rd generation

Được uống bằng miệng: có hiệu quả ở diện rộng đối với nhiều loại vi khuẩn cho những người bị nhiễm trùng nhẹ đến vừa phải, bao gồm nhiễm trùng da và các mô mềm.
Thuốc tiêm: Các nhiễm trùng nghiêm trọng (chẳng hạn như viêm màng não hoặc các nhiễm trùng mắc phải ở bệnh viện).

Rối loạn đường tiêu hóa và tiêu chảy
Buồn nôn
Các phản ứng dị ứng

Cephalosporins, 4th generation

Các nhiễm trùng nghiêm trọng (bao gồm nhiễm khuẩn Pseudomonas) đặc biệt ở những người có hệ thống miễn dịch yếu và các nhiễm trùng do khả năng kháng của vi khuẩn đối với các loại thuốc kháng sinh khác

Rối loạn đường tiêu hóa và tiêu chảy
Buồn nôn
Các phản ứng dị ứng

Cephalosporins, 5th generation

Ceftobiprole
Các nhiễm trùng da phức tạp bao gồm nhiễm trùng ở bàn chân đối với những người bị bệnh tiểu đường, do các vi khuẩn gây ra như Escherichia coli, Pseudomonas aeruginosa, và vi khuẩn kháng methicillin Staphylococcus aureus (MRSA – vi khuẩn gây ra bệnh nhọt, chứng nhiễm mủ huyết, viêm tủy xương, mưng mủ vết thương, và ngộ độc thực phẩm)

 

Fluoroquinolones

Nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm tuyến tiền liệt do vi khuẩn, tiêu chảy do vi khuẩn, và bệnh lậu
Buồn nôn (hiếm)
Lo lắng, rùng mình, và động kinh
Tình trạng viêm hay đứt dây chằng (gân)
Nhịp tim bất thường (chứng loạn nhịp tim)
Chứng tiêu chảy có liên quan đến thuốc kháng sinh và viêm ruột kết (viêm đại tràng)
Đối với thuốc trovafloxacin đôi khi làm tổn thương gan có thể gây tử vong.

Glycylcycline

Các biến chứng nhiễm trùng bụng và các biến chứng nhiêm trùng da do các vi khuẩn bị ảnh hưởng, chẳng hạn như Escherichia coli, Staphylococcus aureus (kể cả các vi khuẩn kháng methicillin) và vi khuẩn kỵ khí

Các rối loạn thuộc về tiêu hóa
Sự nhạy cảm với ánh sáng mặt trời
Bị đen răng vĩnh viễn ở thai nhi nếu như dùng thuốc ở giai đoạn cuối thời kỳ mang thai hoặc đối với trẻ em dưới 8 tuổi.

Macrolides

Dirithromycin

Nhiễm khuẩn cầu chuỗi, bệnh giang mai, nhiễm trùng đường hô hấp, nhiễm vi sinh vật mycoplasma và bệnh Lyme (là một căn bệnh viêm sưng do vi khuẩn Borrelia burgdorferi gây ra và bị lây nhiễm khi bị ve cắn).

Buồn nôn, ói mửa, và tiêu chảy (đặc biệt là dùng ở liều lượng cao)
Bệnh vàng da
Nhịp tim bất thường

Monobactam

Các nhiễm trùng do vi khuẩn gram-âm gây ra
Các phản ứng dị ứng
Có thể dùng cho các bệnh nhân bị dị ứng với  các loại thuốc kháng sinh như  penicillins, cephalosporins, và carbapenems

Penicillins

Cloxacillin
Một số lớn các nhiễm trùng bao gồm nhiễm khuẩn cầu chuỗi, bệnh giang mai, và bệnh Lyme
Buồn nôn, ói mửa và tiêu chảy
Dị ứng với các loại phản ứng dị ứng đe dọa tính mạng nghiêm trọng
Tổn thương não và thận (hiếm)

Polypeptides*
Các nhiễm trùng ở tai, mắt, da, hoặc bàng quang
Thường bôi trực tiếp lên da, và hiếm khi tiêm.

Tổn thương thận và dây thần kinh (khi tiêm)

Sulfonamides

Sulfacetamide
Sulfamethizole
Sulfisoxazole
Trimethoprim-sulfamethoxazole
Nhiễm trùng đường tiết niệu (ngoại trừ sulfasalazine, sulfacetamide, và mafenide)
Đối với mafenide chỉ dùng để thoa (bôi) trên da cho các trường hợp bị phỏng
Buồn nôn, ói mửa, và tiêu chảy
Dị ứng (bao gồm phát ban ở da)
Sạn trong nước tiểu (hiếm)
Giảm số lượng bạch cầu và tiểu cầu
Nhạy cảm với ánh sáng mặt trời
Có khả năng gia tăng khuynh hướng chảy máu cam nếu được dùng chung với warfarin

Tetracyclines

Oxytetracycline

Bệnh giang mai, nhiễm vi khuẩn gram-âm chlamydia, bệnh Lyme, nhiễm vi sinh vật mycoplasma, và các nhiễm trùng do vi khuẩn rickettsia gây ra.
Rối loạn tiêu hóa
Nhạy cảm với ánh sáng mặt trời
Bị đen răng ở trẻ em dưới 8 tuối hoặc ở thai nhi nếu sử dụng thuốc vào cuối giai đoạn mang thai.

Miscellaneous antibiotics

Bệnh thương hàn, nhiễm khuẩn salmonella, và viêm màng não

Giảm số lượng bạch cầu nghiêm trọng (hiếm)
Nhiễm khuẩn cầu chuỗi Streptococcus và khuẩn cầu chùm gram-dương staphylococcus, nhiễm trùng đường hô hấp, và chứng áp xe phổi

Tiêu chảy có liên quan đến việc sử dụng thuốc kháng sinh và viêm sưng ruột kết (viêm kết tràng)
Các loại nhiễm trùng da gây biến chứng, nhiễm trùng máu, và một số nhiễm trùng van tim (viêm màng trong tim) do các vi khuẩn bị ảnh hưởng gây ra, bao gồm vi khuẩn kháng methicillin Staphylococcus aureus (MRSA)
Không được dùng khi bị nhiễm trùng có liên quan đến phổi

Rối loạn tiêu hóa
Đau cơ và đuối sức

Bệnh lao

Rối loạn thị giác
Nhiễm trùng bàng quang

Tiêu chảy
Bệnh lao
Buồn nôn và ói mửa
Bệnh vàng da

Các nhiễm trùng nghiêm trọng gây ra bởi vi khuẩn gram-dương, có khả năng kháng lại nhiều loại thuốc kháng sinh khác.
Buồn nôn
Đau đầu
Tiêu chảy
Bệnh thiếu máu và tình trạng số lượng tiểu cầu và bạch cầu xuống thấp
Tê và ngứa ran ở tay và chân (Đau thần kinh ngoại vi)
Rối loạn thị giác
Nhầm lẫn, kích động, rùng mình hoặc hôn mê ở những người mà cũng sử dụng các loại thuốc ức chế tiết serotonin chọn lọc (SSRIs)

Viêm âm đạo do chủng loại Trichomonas hoặc Gardnerella, nhiễm trùng khung chậu và nhiễm trùng bụng
Buồn nôn
Đau đầu (đặc biệt nếu thuốc được uống với rượu)
Có mùi vị kim loại
Tê và ngứa ran ở tay chân (đau thần kinh ngoại vi)
Nước tiểu sẫm

Nhiễm trùng đường tiết niệu
Buồn nôn và ói mửa
Dị ứng

Bệnh lao
Rối loạn chức năng gan
Bệnh gút (đôi khi)

Quinupristin-dalfopristin
Các nhiễm trùng nghiêm trọng gây ra bởi vi khuẩn gram-dương kháng lại các loại thuốc kháng sinh khác.

Đau nhức cơ và các khớp
Bệnh lao và bệnh phong cùi
Phát ban (mề đay)
Rối loạn chức năng gan
Nước bọt, mồ hôi, nước mắt, nước tiểu có màu đỏ -cam

Bệnh lậu
Dị ứng
Sốt

Telithromycin
Viêm phổi cộng động mắc phải từ nhẹ đến trung bình (bệnh viêm phổi cộng đồng mắc phải là bệnh viêm phổi không xảy ra bên trong bệnh viện và những trung tâm y tế chăm sóc dài hạn)
Rối loạn thị giác
Tổn thương gan (có thể gây tử vong)
Làm cho các triệu chứng bệnh ở những người bị nhược cơ mãn tính (myasthenia gravis) trở nên trầm trọng (có thể gây tử vong)

Các loại nhiễm trùng nghiêm trọng, đặc biệt là những loại nhiễm trùng do MRSA hoặc khuẩn cầu ruột không gây bệnh (Enterococcus) gây ra, và các trường hợp đối kháng với các loại kháng sinh khác.

Da ửng đỏ, ngứa
Các phản ứng dị ứng
Giảm số lượng tiểu cầu và bạch cầu
*Polypeptide antibiotics are usually applied directly to the skin or eye and are rarely given by injection.
Các thuốc kháng sinh polypeptide thường được bôi trực tiếp lên da hoặc nhỏ vào mắt và hiếm khi tiêm.




Bệnh lậu (Gonorrhea) lây truyền một cách dễ dàng và có thể dẫn đến tình trạng vô sinh ở nam và nữ, nếu không được chữa trị.  Các loại thuốc kháng sinh có thể ngăn chặn được bệnh nhiễm trùng này.

Các triệu chứng: Các triệu chứng thông thường là cảm giác đau rát khi đi tiểu và chảy mủ, nhưng thường không có các triệu chứng ban đầu.  Sau đó, sự nhiễm trùng có thể gây phát ban ở da hoặc lan truyền đến các khớp và máu.

Ở Nam Giới: chảy mủ ở dương vật, sưng tinh hoàn.

Ở Phụ Nữ: Chảy mủ ở âm đạo, đau khung chậu, chảy máu tử cung (thỉnh thoảng, bất thường, và với số lượng nhỏ).  Các triệu chứng có thể nhẹ và dễ bị nhầm lẫn với tình trạng nhiễm trùng đường tiết niệu hoặc nhiễm trùng âm đạo.




Đa số bệnh nhân không chú ý đến các triệu chứng ban đầu của bệnh giang mai (syphilis).  Nếu không được chữa trị, căn bệnh có thể dẫn đến tình trạng bại liệt, mù, và tử vong.  Bệnh giang mai có thể được chữa trị bằng các loại thuốc kháng sinh.

Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng: Dấu hiệu ban đầu thường là cảm giác khó chịu gây chú ý và kéo dài ở khu vực bộ phận sinh dục hoặc hậu môn.  Căn bệnh này lây truyền bằng việc tiếp xúc trực tiếp khi bị cảm giác khó chịu này.  Sau đó, có thể xuất hiện tình trạng phát ban ở lòng bàn chân, lòng bàn tay, hoặc những phần khác của cơ thể (xem hình), cũng như những tuyến bị sưng, sốt, rụng tóc, hoặc cảm giác mệt mỏi.  Ở giai đoạn cuối, các triệu chứng phát xuất từ sự hủy hoại các cơ quan như tim, não, gan, dây thần kinh, và mắt.




Chlamydia là một chứng bệnh lây truyền qua đường sinh dục phổ biến mà có thể dẫn đến tình trạng vô sinh nếu không được chữa trị.  Chứng bệnh này có thể biến mất một cách nhanh chóng nếu sử dụng thuốc kháng sinh.  Nhưng chứng bệnh này thường ra đi âm thầm bởi vì các triệu chứng thường không rõ ràng và thường không xuất hiện.  Vi khuẩn Chlamydia cũng có thể lây nhiễm cho trực tràng và cổ họng.

Các Triệu Chứng ở Nam Giới: Cảm giác rát và ngứa ở đầu dương vật, chảy mủ, và đi tiểu bị đau.

Các Triệu Chứng ở Phụ Nữ: Ngứa âm đạo, chảy mủ mà có thể có mùi, bị đau khi quan hệ tình dục, đi tiểu bị đau.  




Bệnh Trichomoniasis gây ra bởi một loại ký sinh trùng mà lây truyền qua tiếp xúc tình dục.  Chứng bệnh này có thể được chữa khỏi bằng các loại thuốc do bác sĩ kê toa.

Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng ở Nam Giới: Đa số đàn ông không có các triệu chứng rõ ràng.  Một số nam giới phát triển tình trạng chảy mủ nhẹ hoặc cảm giác đau rất nhẹ khi đi tiểu. 

Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng ở Phụ Nữ: Phụ nữ có thể phát triển tình trạng chảy mủ màu vàng xanh nặng mùi, ngứa âm đạo, hoặc cảm giác đau khi quan hệ tình dục hoặc đi tiểu.  Các triệu chứng thường bắt đầu từ 5 đến 28 ngày sau khi nhiễm ký sinh trùng này.




Bản thân nó không phải là một chứng bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục, bệnh viêm khung xương chậu (pelvic inflammatory disease - PID) là một biến chứng nghiêm trọng của các chứng bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục mà không được chữa trị, đặc biệt là bệnh chlamydia và bệnh lậu.  Nó xảy ra khi vi khuẩn lây nhiễm đến tử cung và các cơ quan sinh sản khác của phụ nữ.  Điều trị kịp thời thì rất cần thiết để ngăn ngừa sự tổn thương đến khả năng sinh sản của phụ nữ.

Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng: Đau vùng bụng dưới, sốt, chảy mủ bất thường, bị đau khi quan hệ tình dục, bị đau khi đi tiểu, và chảy máu tử cung (thỉnh thoảng, bất thường, và với số lượng nhỏ).  Thường không có các dấu hiệu cảnh báo.




Bệnh Lyme là một chứng bệnh do vi khuẩn, gây ra bởi một loại vi khuẩn được gọi là “spirochete”, mà có thể lây truyền cho người khi bị các loại ve bị nhiễm khuẩn (Ixodes scapularisIxodes pacificus) cắn phải.   Tên thật của loại vi khuẩn này ở Hoa Kỳ là Borrelia burgdorferi.  Ở Châu Âu, có một loại vi khuẩn khác, gọi là Borrelia afzelii, cũng gây ra bệnh Lyme.




Staphylococcus (vi khuẩn hình cầu, khuẩn cầu chùm) là một nhóm vi khuẩn mà có thể gây ra một số chứng bệnh là kết quả của một số mô trong cơ thể bị nhiễm trùng.  Staphylococcus thường được biết đến dưới cái tên Staph (được phát âm như chữ “staff”).  Chứng bệnh có liên quan đến vi khuẩn Staph có thể từ nhẹ và không cần điều trị đến nghiêm trọng và có nguy cơ tử vong.  Có trên 30 loại vi khuẩn Staphylococci có thể gây nhiễm trùng cho người, nhưng phần lớn tình trạng nhiễm trùng là do chủng loại Staphylococcus aureus gây ra.  Khuẩn cầu chùm có thể thường được tìm thấy ở mũi và trên da (và ít được tìm thấy ở các khu vực khác trên cơ thể) trong khoảng 25% - 30% những người trưởng thành khỏe mạnh.  Trong đa số các trường hợp, loại vi khuẩn này không gây ra bệnh.  Tuy nhiên, tổn thương ở da hoặc chấn thương khác có thể cho phép vi khuẩn đánh bại cơ chế phòng thủ tự nhiên của cơ thể, dẫn đến tình trạng nhiễm trùng.




Chùm vi khuẩn rất nhỏ này có tên là Staphylococcus aureus kháng methicillin (methicillin-resistant Staphylococcus aureus - MRSA), được nhìn qua kính hiển vi.  Chủng loại này thuộc nhóm vi khuẩn “staph” phổ biến gây nhiễm trùng ở các phần khác nhau của cơ thể - bao gồm da, phổi, và những khu vục khác.  MRSA thỉnh thoảng được gọi là “siêu khuẩn - superbug” bởi vì nó có khả năng đề kháng lại nhiều loại thuốc kháng sinh.  Mặc dù đa số tình trạng nhiễm trùng do MRSA không nghiêm trọng, nhưng một vài tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa đến tính mạng.




Nhiễm Trùng Da do MRSA: Các Triệu Chứng

Các nhiễm trùng do MRSA có thể rất giống các nhiễm trùng da thông thường do vi khuẩn staph: một khối u đỏ nhỏ, mụn, hoặc đinh nhọt.  Khu vực bị nhiễm có thể bị đỏ, đau nhức, bị sưng, hoặc có cảm giác ấm khi chạm vào.  Mủ hoặc các chất dịch khác có thể chảy ra từ vết thương.  Đa số các nhiễm trùng da do MRSA thường là nhẹ, nhưng chúng có thể thay đổi, và trở nên ăn sâu vào các mô và trở nên nghiêm trọng hơn.




MRSA, Nhện Cắn Hay Các Vấn Đề Khác?

Sâu bọ cắn, phát ban, và các tình trạng về da khác có thể bị nhầm lẫn với MRSA bởi vì các triệu chứng có thể giống nhau: bị đỏ, sưng, cảm giác ấm, hoặc bị đau.  Các bác sĩ phòng cấp cứu (ER doctors) thường hỏi những bệnh nhân mà nhập viện với một vết nhện cắn xem họ có thật sự nhìn thấy con nhện đó không, bởi vì những “vết cắn” này thường hóa ra là do MRSA.  Khi một tình trạng nhiễm trùng da lan rộng ra hoặc không cải thiện sau 2-3 ngày dùng thuốc kháng sinh, nó có thể là do MRSA.




Nhiễm Trùng Da do MRSA: Viêm Tế Bào

MRSA có thể dẫn đến tình trạng viêm tế bào (Cellulitis), một tình trạng nhiễm trùng ở những lớp da và những lớp mô sâu bên dưới.  Trên bề mặt, da có màu hồng hoặc đỏ, giống như vết cháy nắng, và có thể có cảm giác ấm, đau, và sưng lên.  Viêm tế bào có thể lan rộng ra rất nhanh trong vòng vài giờ.




Nhiễm Trùng Da do MRSA: Áp xe (tình trạng tự mủ cục bộ)
           
MRSA thỉnh thoảng có thể gây ra một tình trạng nhiễm trùng sâu hơn được gọi là áp xe (abscess), là một tình trạng tích tụ mủ mà có thể nằm dưới da.  Một tình trạng nhiễm trùng da nhẹ mà không được chữa trị hợp lý và kịp thời, có thể phát triển thành chứng áp xe.  Loại nhiễm trùng này có thể đòi hỏi phẫu thuật xả mủ và dùng thuốc kháng sinh để chữa trị.




MRSA: Làm Thế Nào Bệnh Nhân Bị Lây Nhiễm?
           
MRSA có thể lây truyền bằng cách tiếp xúc trực tiếp với người bị nhiễm hoặc những vật bạn chạm vào.  Các trường hợp trợ giúp việc lây lan MRSA bao gồm: tiếp xúc da; các vết cắt hoặc trầy xước trên da; dùng chung vật dụng vệ sinh cá nhân như dao cạo và khăn tắm; và tiếp xúc với những vật dụng nhiễm vi khuẩn bao gồm nắm cửa và dụng cụ thể dục.  Có khoảng một trong 100 người mang vi khuẩn trên người, nhưng không trở bệnh.




Ai Mắc Phải MRSA?
           
Những người mà gần đây tiếp nhận phẫu thuật hoặc nhập viện có nhiều nguy cơ phát triển MRSA.  Điều này cũng được tìm thấy ở những người cao tuổi, những người sống trong những nhà dưỡng lão, và những người có hệ thống miễn dịch suy yếu.  Một chứng bệnh mãn tính như tiểu đường, ung thư, hoặc HIV sẽ làm gia tăng cơ hội bệnh nhân mắc phải tình trạng nhiễm trùng khó trị này.