- Mặc dù các bác sĩ muốn sử dụng các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) để điều trị cho các bệnh nhiễm trùng đặc biệt do vi khuẩn gây ra, nhưng đôi khi các bác sĩ cũng có thể bắt đầu cho sử dụng thuốc kháng sinh mà không cần phải đợi các kết quả xét nghiệm nhận dạng vi khuẩn cụ thể.
- Vi khuẩn có thể phát triển tính năng đề kháng đối với tác dụng của các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh).
- Sử dụng thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) theo chỉ dẫn, thậm chí sau khi các triệu chứng đã biến mất, là rất cần thiết để chữa khỏi hẳn sự nhiễm trùng và ngăn ngừa sự phát triển tính năng đề kháng trong các vi khuẩn.
- Các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) có thể có tác dụng phụ, chẳng hạn như đau dạ dày, tiêu chảy, và nhiễm nấm men âm đạo ở phụ nữ (vaginal yeast infections).
- Một vài người bị dị ứng với một số loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh).
Kháng sinh (kháng khuẩn) là các loại thuốc có nguồn gốc hoàn toàn hoặc một phần từ vi khuẩn hoặc các loại nấm mốc, và được dùng để chữa trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra. Chúng không có tác dụng chống lại các bệnh nhiễm trùng do virút và nấm gây ra. Các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) có tác dụng tiêu diệt các loại vi sinh vật hoặc làm ngưng quá trình sản sinh của chúng, cho phép hệ thống phòng thủ tự nhiên của cơ thể loại bỏ các loại vi sinh vật này.
LỰA CHỌN THUỐC KHÁNG SINH
Mỗi loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) chỉ có tác dụng chống lại một số loại vi khuẩn nhất định. Trong việc lựa chọn loại thuốc kháng sinh để chữa trị cho người bị nhiễm trùng, các bác sĩ sẽ dự đoán loại vi khuẩn có khả năng gây ra bệnh. Ví dụ, một số bệnh nhiễm trùng chỉ do một số loại vi khuẩn nhất định gây ra. Nếu như một loại thuốc kháng sinh được dự đoán là có tác dụng chống lại tất cả các loại vi khuẩn, thì không cần thiết phải xét nghiệm thêm nữa. Nếu tình trạng nhiễm trùng có thể do nhiều loại vi khuẩn khác nhau hoặc một loại vi khuẩn gây ra mà được dự đoán là không bị ảnh hưởng bởi thuốc kháng sinh, thì xét nghiệm sẽ được yêu cầu thực hiện để xác định các loại vi khuẩn gây ra tình trạng nhiễm trùng từ các mẫu máu, nước tiểu, hay mô lấy từ bệnh nhân đó. Các loại vi khuẩn gây nhiễm trùng này sau đó được thử nghiệm tính nhạy cảm với các loại thuốc kháng sinh khác nhau. Kết quả của các xét nghiệm này thường mất từ một đến hai ngày và do đó không thể chỉ dẫn sự lựa chọn ban đầu về việc sử dụng thuốc kháng sinh.
Các loại kháng sinh (thuốc trụ sinh) có hiệu quả trong phòng thí nghiệm thì không nhất thiết sẽ có tác dụng đối với người bị nhiễm bệnh. Hiệu quả của việc điều trị dựa vào mức độ thuốc được hấp thụ vào máu, số lượng thuốc đến được những nơi bị nhiễm trùng, và tốc độ cơ thể bài tiết thuốc, các yếu tố này khác nhau ở từng người, tùy thuộc vào các loại thuốc khác nhau đang dùng, sự hiện diện của một rối loạn khác, và độ tuổi của người đó. Trong việc lựa chọn thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh), các bác sĩ cũng xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tình trạng nhiễm trùng, khả năng gây ra các tác dụng phụ, khả năng gây dị ứng và các phản ứng nghiêm trọng khác của thuốc và giá cả của thuốc.
Sự kết hợp các loại thuốc kháng sinh (thuốc trụ sinh) đôi khi cần thiết để điều trị các trường hợp sau:
- Đối với những bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng, đặc biệt trong suốt những ngày đầu khi mà sự ảnh hưởng của thuốc kháng sinh đối với vi khuẩn chưa được biết rõ.
- Một số tình trạng nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra mà phát triển một cách nhanh chóng tính năng đề kháng một loại kháng sinh đơn lẻ.
- Các bệnh nhiễm trùng do nhiều loại vi khuẩn gây ra nếu như mỗi loại vi khuẩn bị ảnh hưởng bởi một loại kháng sinh khác nhau.
CÁC LOẠI THUỐC KHÁNG SINH (THUỐC TRỤ SINH) |
|
Tên thuốc | Tác dụng thông thường | Các tác dụng phụ |
Aminoglycosides |
Netilmicin | Các nhiễm trùng do vi khuẩn gram-âm (gram-negative bacteria) gây ra, chẳng hạn như Escherichia coli và các chủng Klebsiella
| Giảm thính giác Chóng mặt Tổn thương thận |
Carbapenems |
| Chứng hoại tử, nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, nhiễm trùng bụng và đường tiết niệu, các nhiễm trùng do vi khuẩn kháng lại các loại thuốc kháng sinh khác và (ngoại trừ ertapenem), nhiễm khuẩn Pseudomonas
| Động kinh, đặc biệt với imipenem Tình trạng rối loạn tinh thần. |
Cephalosporins, 1st generation |
| Chủ yếu là các nhiễm trùng da và mô mềm | Rối loạn đường tiêu hóa và tiêu chảy Buồn nôn Các phản ứng dị ứng
|
Cephalosporins, 2nd generation |
| Một vài nhiễm trùng đường hô hấp, và đối với thuốc cefoxitin, dùng cho nhiễm trùng bụng | Rối loạn đường tiêu hóa và tiêu chảy Buồn nôn Các phản ứng dị ứng
|
Cephalosporins, 3rd generation |
| Được uống bằng miệng: có hiệu quả ở diện rộng đối với nhiều loại vi khuẩn cho những người bị nhiễm trùng nhẹ đến vừa phải, bao gồm nhiễm trùng da và các mô mềm. Thuốc tiêm: Các nhiễm trùng nghiêm trọng (chẳng hạn như viêm màng não hoặc các nhiễm trùng mắc phải ở bệnh viện).
| Rối loạn đường tiêu hóa và tiêu chảy Buồn nôn Các phản ứng dị ứng |
Cephalosporins, 4th generation |
| Các nhiễm trùng nghiêm trọng (bao gồm nhiễm khuẩn Pseudomonas) đặc biệt ở những người có hệ thống miễn dịch yếu và các nhiễm trùng do khả năng kháng của vi khuẩn đối với các loại thuốc kháng sinh khác
| Rối loạn đường tiêu hóa và tiêu chảy Buồn nôn Các phản ứng dị ứng |
Cephalosporins, 5th generation |
Ceftobiprole | Các nhiễm trùng da phức tạp bao gồm nhiễm trùng ở bàn chân đối với những người bị bệnh tiểu đường, do các vi khuẩn gây ra như Escherichia coli, Pseudomonas aeruginosa, và vi khuẩn kháng methicillin Staphylococcus aureus (MRSA – vi khuẩn gây ra bệnh nhọt, chứng nhiễm mủ huyết, viêm tủy xương, mưng mủ vết thương, và ngộ độc thực phẩm)
| |
Fluoroquinolones |
| Nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm tuyến tiền liệt do vi khuẩn, tiêu chảy do vi khuẩn, và bệnh lậu | Buồn nôn (hiếm) Lo lắng, rùng mình, và động kinh Tình trạng viêm hay đứt dây chằng (gân) Nhịp tim bất thường (chứng loạn nhịp tim) Chứng tiêu chảy có liên quan đến thuốc kháng sinh và viêm ruột kết (viêm đại tràng) Đối với thuốc trovafloxacin đôi khi làm tổn thương gan có thể gây tử vong.
|
Glycylcycline |
| Các biến chứng nhiễm trùng bụng và các biến chứng nhiêm trùng da do các vi khuẩn bị ảnh hưởng, chẳng hạn như Escherichia coli, Staphylococcus aureus (kể cả các vi khuẩn kháng methicillin) và vi khuẩn kỵ khí
| Các rối loạn thuộc về tiêu hóa Sự nhạy cảm với ánh sáng mặt trời Bị đen răng vĩnh viễn ở thai nhi nếu như dùng thuốc ở giai đoạn cuối thời kỳ mang thai hoặc đối với trẻ em dưới 8 tuổi.
|
Macrolides |
Dirithromycin
| Nhiễm khuẩn cầu chuỗi, bệnh giang mai, nhiễm trùng đường hô hấp, nhiễm vi sinh vật mycoplasma và bệnh Lyme (là một căn bệnh viêm sưng do vi khuẩn Borrelia burgdorferi gây ra và bị lây nhiễm khi bị ve cắn).
| Buồn nôn, ói mửa, và tiêu chảy (đặc biệt là dùng ở liều lượng cao) Bệnh vàng da Nhịp tim bất thường |
Monobactam |
| Các nhiễm trùng do vi khuẩn gram-âm gây ra | Các phản ứng dị ứng Có thể dùng cho các bệnh nhân bị dị ứng với các loại thuốc kháng sinh như penicillins, cephalosporins, và carbapenems
|
Penicillins |
Cloxacillin | Một số lớn các nhiễm trùng bao gồm nhiễm khuẩn cầu chuỗi, bệnh giang mai, và bệnh Lyme | Buồn nôn, ói mửa và tiêu chảy Dị ứng với các loại phản ứng dị ứng đe dọa tính mạng nghiêm trọng Tổn thương não và thận (hiếm)
|
Polypeptides* |
| Các nhiễm trùng ở tai, mắt, da, hoặc bàng quang Thường bôi trực tiếp lên da, và hiếm khi tiêm.
| Tổn thương thận và dây thần kinh (khi tiêm) |
Sulfonamides |
Sulfacetamide Sulfamethizole Sulfisoxazole Trimethoprim-sulfamethoxazole | Nhiễm trùng đường tiết niệu (ngoại trừ sulfasalazine, sulfacetamide, và mafenide) Đối với mafenide chỉ dùng để thoa (bôi) trên da cho các trường hợp bị phỏng | Buồn nôn, ói mửa, và tiêu chảy Dị ứng (bao gồm phát ban ở da) Sạn trong nước tiểu (hiếm) Giảm số lượng bạch cầu và tiểu cầu Nhạy cảm với ánh sáng mặt trời Có khả năng gia tăng khuynh hướng chảy máu cam nếu được dùng chung với warfarin
|
Tetracyclines |
Oxytetracycline
| Bệnh giang mai, nhiễm vi khuẩn gram-âm chlamydia, bệnh Lyme, nhiễm vi sinh vật mycoplasma, và các nhiễm trùng do vi khuẩn rickettsia gây ra. | Rối loạn tiêu hóa Nhạy cảm với ánh sáng mặt trời Bị đen răng ở trẻ em dưới 8 tuối hoặc ở thai nhi nếu sử dụng thuốc vào cuối giai đoạn mang thai.
|
Miscellaneous antibiotics |
| Bệnh thương hàn, nhiễm khuẩn salmonella, và viêm màng não
| Giảm số lượng bạch cầu nghiêm trọng (hiếm) |
| Nhiễm khuẩn cầu chuỗi Streptococcus và khuẩn cầu chùm gram-dương staphylococcus, nhiễm trùng đường hô hấp, và chứng áp xe phổi
| Tiêu chảy có liên quan đến việc sử dụng thuốc kháng sinh và viêm sưng ruột kết (viêm kết tràng) |
| Các loại nhiễm trùng da gây biến chứng, nhiễm trùng máu, và một số nhiễm trùng van tim (viêm màng trong tim) do các vi khuẩn bị ảnh hưởng gây ra, bao gồm vi khuẩn kháng methicillin Staphylococcus aureus (MRSA) Không được dùng khi bị nhiễm trùng có liên quan đến phổi
| Rối loạn tiêu hóa Đau cơ và đuối sức
|
| Bệnh lao
| Rối loạn thị giác |
| Nhiễm trùng bàng quang
| Tiêu chảy |
| Bệnh lao | Buồn nôn và ói mửa Bệnh vàng da
|
| Các nhiễm trùng nghiêm trọng gây ra bởi vi khuẩn gram-dương, có khả năng kháng lại nhiều loại thuốc kháng sinh khác. | Buồn nôn Đau đầu Tiêu chảy Bệnh thiếu máu và tình trạng số lượng tiểu cầu và bạch cầu xuống thấp Tê và ngứa ran ở tay và chân (Đau thần kinh ngoại vi) Rối loạn thị giác Nhầm lẫn, kích động, rùng mình hoặc hôn mê ở những người mà cũng sử dụng các loại thuốc ức chế tiết serotonin chọn lọc (SSRIs)
|
| Viêm âm đạo do chủng loại Trichomonas hoặc Gardnerella, nhiễm trùng khung chậu và nhiễm trùng bụng | Buồn nôn Đau đầu (đặc biệt nếu thuốc được uống với rượu) Có mùi vị kim loại Tê và ngứa ran ở tay chân (đau thần kinh ngoại vi) Nước tiểu sẫm
|
| Nhiễm trùng đường tiết niệu | Buồn nôn và ói mửa Dị ứng
|
| Bệnh lao | Rối loạn chức năng gan Bệnh gút (đôi khi)
|
Quinupristin-dalfopristin | Các nhiễm trùng nghiêm trọng gây ra bởi vi khuẩn gram-dương kháng lại các loại thuốc kháng sinh khác.
| Đau nhức cơ và các khớp |
| Bệnh lao và bệnh phong cùi | Phát ban (mề đay) Rối loạn chức năng gan Nước bọt, mồ hôi, nước mắt, nước tiểu có màu đỏ -cam
|
| Bệnh lậu | Dị ứng Sốt
|
Telithromycin | Viêm phổi cộng động mắc phải từ nhẹ đến trung bình (bệnh viêm phổi cộng đồng mắc phải là bệnh viêm phổi không xảy ra bên trong bệnh viện và những trung tâm y tế chăm sóc dài hạn) | Rối loạn thị giác Tổn thương gan (có thể gây tử vong) Làm cho các triệu chứng bệnh ở những người bị nhược cơ mãn tính (myasthenia gravis) trở nên trầm trọng (có thể gây tử vong)
|
| Các loại nhiễm trùng nghiêm trọng, đặc biệt là những loại nhiễm trùng do MRSA hoặc khuẩn cầu ruột không gây bệnh (Enterococcus) gây ra, và các trường hợp đối kháng với các loại kháng sinh khác.
| Da ửng đỏ, ngứa Các phản ứng dị ứng Giảm số lượng tiểu cầu và bạch cầu |
*Polypeptide antibiotics are usually applied directly to the skin or eye and are rarely given by injection. Các thuốc kháng sinh polypeptide thường được bôi trực tiếp lên da hoặc nhỏ vào mắt và hiếm khi tiêm. |
|
|
|
|
Bệnh lậu (Gonorrhea) lây truyền một cách dễ dàng và có thể dẫn đến tình trạng vô sinh ở nam và nữ, nếu không được chữa trị. Các loại thuốc kháng sinh có thể ngăn chặn được bệnh nhiễm trùng này.
Các triệu chứng: Các triệu chứng thông thường là cảm giác đau rát khi đi tiểu và chảy mủ, nhưng thường không có các triệu chứng ban đầu. Sau đó, sự nhiễm trùng có thể gây phát ban ở da hoặc lan truyền đến các khớp và máu.
Ở Nam Giới: chảy mủ ở dương vật, sưng tinh hoàn.
Ở Phụ Nữ: Chảy mủ ở âm đạo, đau khung chậu, chảy máu tử cung (thỉnh thoảng, bất thường, và với số lượng nhỏ). Các triệu chứng có thể nhẹ và dễ bị nhầm lẫn với tình trạng nhiễm trùng đường tiết niệu hoặc nhiễm trùng âm đạo.
Đa số bệnh nhân không chú ý đến các triệu chứng ban đầu của bệnh giang mai (syphilis). Nếu không được chữa trị, căn bệnh có thể dẫn đến tình trạng bại liệt, mù, và tử vong. Bệnh giang mai có thể được chữa trị bằng các loại thuốc kháng sinh.
Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng: Dấu hiệu ban đầu thường là cảm giác khó chịu gây chú ý và kéo dài ở khu vực bộ phận sinh dục hoặc hậu môn. Căn bệnh này lây truyền bằng việc tiếp xúc trực tiếp khi bị cảm giác khó chịu này. Sau đó, có thể xuất hiện tình trạng phát ban ở lòng bàn chân, lòng bàn tay, hoặc những phần khác của cơ thể (xem hình), cũng như những tuyến bị sưng, sốt, rụng tóc, hoặc cảm giác mệt mỏi. Ở giai đoạn cuối, các triệu chứng phát xuất từ sự hủy hoại các cơ quan như tim, não, gan, dây thần kinh, và mắt.
Chlamydia là một chứng bệnh lây truyền qua đường sinh dục phổ biến mà có thể dẫn đến tình trạng vô sinh nếu không được chữa trị. Chứng bệnh này có thể biến mất một cách nhanh chóng nếu sử dụng thuốc kháng sinh. Nhưng chứng bệnh này thường ra đi âm thầm bởi vì các triệu chứng thường không rõ ràng và thường không xuất hiện. Vi khuẩn Chlamydia cũng có thể lây nhiễm cho trực tràng và cổ họng.
Các Triệu Chứng ở Nam Giới: Cảm giác rát và ngứa ở đầu dương vật, chảy mủ, và đi tiểu bị đau.
Các Triệu Chứng ở Phụ Nữ: Ngứa âm đạo, chảy mủ mà có thể có mùi, bị đau khi quan hệ tình dục, đi tiểu bị đau.
Bệnh Trichomoniasis gây ra bởi một loại ký sinh trùng mà lây truyền qua tiếp xúc tình dục. Chứng bệnh này có thể được chữa khỏi bằng các loại thuốc do bác sĩ kê toa.
Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng ở Nam Giới: Đa số đàn ông không có các triệu chứng rõ ràng. Một số nam giới phát triển tình trạng chảy mủ nhẹ hoặc cảm giác đau rất nhẹ khi đi tiểu.
Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng ở Phụ Nữ: Phụ nữ có thể phát triển tình trạng chảy mủ màu vàng xanh nặng mùi, ngứa âm đạo, hoặc cảm giác đau khi quan hệ tình dục hoặc đi tiểu. Các triệu chứng thường bắt đầu từ 5 đến 28 ngày sau khi nhiễm ký sinh trùng này.
Bản thân nó không phải là một chứng bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục, bệnh viêm khung xương chậu (pelvic inflammatory disease - PID) là một biến chứng nghiêm trọng của các chứng bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục mà không được chữa trị, đặc biệt là bệnh chlamydia và bệnh lậu. Nó xảy ra khi vi khuẩn lây nhiễm đến tử cung và các cơ quan sinh sản khác của phụ nữ. Điều trị kịp thời thì rất cần thiết để ngăn ngừa sự tổn thương đến khả năng sinh sản của phụ nữ.
Các Dấu Hiệu và Các Triệu Chứng: Đau vùng bụng dưới, sốt, chảy mủ bất thường, bị đau khi quan hệ tình dục, bị đau khi đi tiểu, và chảy máu tử cung (thỉnh thoảng, bất thường, và với số lượng nhỏ). Thường không có các dấu hiệu cảnh báo.
Bệnh Lyme là một chứng bệnh do vi khuẩn, gây ra bởi một loại vi khuẩn được gọi là “spirochete”, mà có thể lây truyền cho người khi bị các loại ve bị nhiễm khuẩn (Ixodes scapularis và Ixodes pacificus) cắn phải. Tên thật của loại vi khuẩn này ở Hoa Kỳ là Borrelia burgdorferi. Ở Châu Âu, có một loại vi khuẩn khác, gọi là Borrelia afzelii, cũng gây ra bệnh Lyme.
Staphylococcus (vi khuẩn hình cầu, khuẩn cầu chùm) là một nhóm vi khuẩn mà có thể gây ra một số chứng bệnh là kết quả của một số mô trong cơ thể bị nhiễm trùng. Staphylococcus thường được biết đến dưới cái tên Staph (được phát âm như chữ “staff”). Chứng bệnh có liên quan đến vi khuẩn Staph có thể từ nhẹ và không cần điều trị đến nghiêm trọng và có nguy cơ tử vong. Có trên 30 loại vi khuẩn Staphylococci có thể gây nhiễm trùng cho người, nhưng phần lớn tình trạng nhiễm trùng là do chủng loại Staphylococcus aureus gây ra. Khuẩn cầu chùm có thể thường được tìm thấy ở mũi và trên da (và ít được tìm thấy ở các khu vực khác trên cơ thể) trong khoảng 25% - 30% những người trưởng thành khỏe mạnh. Trong đa số các trường hợp, loại vi khuẩn này không gây ra bệnh. Tuy nhiên, tổn thương ở da hoặc chấn thương khác có thể cho phép vi khuẩn đánh bại cơ chế phòng thủ tự nhiên của cơ thể, dẫn đến tình trạng nhiễm trùng.
Chùm vi khuẩn rất nhỏ này có tên là Staphylococcus aureus kháng methicillin (methicillin-resistant Staphylococcus aureus - MRSA), được nhìn qua kính hiển vi. Chủng loại này thuộc nhóm vi khuẩn “staph” phổ biến gây nhiễm trùng ở các phần khác nhau của cơ thể - bao gồm da, phổi, và những khu vục khác. MRSA thỉnh thoảng được gọi là “siêu khuẩn - superbug” bởi vì nó có khả năng đề kháng lại nhiều loại thuốc kháng sinh. Mặc dù đa số tình trạng nhiễm trùng do MRSA không nghiêm trọng, nhưng một vài tình trạng nhiễm trùng có thể đe dọa đến tính mạng.
Nhiễm Trùng Da do MRSA: Các Triệu Chứng
Các nhiễm trùng do MRSA có thể rất giống các nhiễm trùng da thông thường do vi khuẩn staph: một khối u đỏ nhỏ, mụn, hoặc đinh nhọt. Khu vực bị nhiễm có thể bị đỏ, đau nhức, bị sưng, hoặc có cảm giác ấm khi chạm vào. Mủ hoặc các chất dịch khác có thể chảy ra từ vết thương. Đa số các nhiễm trùng da do MRSA thường là nhẹ, nhưng chúng có thể thay đổi, và trở nên ăn sâu vào các mô và trở nên nghiêm trọng hơn.
MRSA, Nhện Cắn Hay Các Vấn Đề Khác?
Sâu bọ cắn, phát ban, và các tình trạng về da khác có thể bị nhầm lẫn với MRSA bởi vì các triệu chứng có thể giống nhau: bị đỏ, sưng, cảm giác ấm, hoặc bị đau. Các bác sĩ phòng cấp cứu (ER doctors) thường hỏi những bệnh nhân mà nhập viện với một vết nhện cắn xem họ có thật sự nhìn thấy con nhện đó không, bởi vì những “vết cắn” này thường hóa ra là do MRSA. Khi một tình trạng nhiễm trùng da lan rộng ra hoặc không cải thiện sau 2-3 ngày dùng thuốc kháng sinh, nó có thể là do MRSA.
Nhiễm Trùng Da do MRSA: Viêm Tế Bào
MRSA có thể dẫn đến tình trạng viêm tế bào (Cellulitis), một tình trạng nhiễm trùng ở những lớp da và những lớp mô sâu bên dưới. Trên bề mặt, da có màu hồng hoặc đỏ, giống như vết cháy nắng, và có thể có cảm giác ấm, đau, và sưng lên. Viêm tế bào có thể lan rộng ra rất nhanh trong vòng vài giờ.
Nhiễm Trùng Da do MRSA: Áp xe (tình trạng tự mủ cục bộ)
MRSA thỉnh thoảng có thể gây ra một tình trạng nhiễm trùng sâu hơn được gọi là áp xe (abscess), là một tình trạng tích tụ mủ mà có thể nằm dưới da. Một tình trạng nhiễm trùng da nhẹ mà không được chữa trị hợp lý và kịp thời, có thể phát triển thành chứng áp xe. Loại nhiễm trùng này có thể đòi hỏi phẫu thuật xả mủ và dùng thuốc kháng sinh để chữa trị.
MRSA: Làm Thế Nào Bệnh Nhân Bị Lây Nhiễm?
MRSA có thể lây truyền bằng cách tiếp xúc trực tiếp với người bị nhiễm hoặc những vật bạn chạm vào. Các trường hợp trợ giúp việc lây lan MRSA bao gồm: tiếp xúc da; các vết cắt hoặc trầy xước trên da; dùng chung vật dụng vệ sinh cá nhân như dao cạo và khăn tắm; và tiếp xúc với những vật dụng nhiễm vi khuẩn bao gồm nắm cửa và dụng cụ thể dục. Có khoảng một trong 100 người mang vi khuẩn trên người, nhưng không trở bệnh.
Những người mà gần đây tiếp nhận phẫu thuật hoặc nhập viện có nhiều nguy cơ phát triển MRSA. Điều này cũng được tìm thấy ở những người cao tuổi, những người sống trong những nhà dưỡng lão, và những người có hệ thống miễn dịch suy yếu. Một chứng bệnh mãn tính như tiểu đường, ung thư, hoặc HIV sẽ làm gia tăng cơ hội bệnh nhân mắc phải tình trạng nhiễm trùng khó trị này.