CÁC SẢN PHẨM KHÔNG CẦN TOA BÁC SĨ GIÚP QUẢN LÝ HO, CẢM LẠNH, VÀ CẢM CÚM
Mỗi năm, có hàng triệu người sử dụng các loại thuốc trị ho, cảm lạnh và cảm cúm được bán trên thị trường để điều trị và quản lý các triệu chứng liên quan đến cảm lạnh và cảm cúm.
Số lượng quá lớn các sản phẩm trong hạng mục này có thể làm cho nhiều bệnh nhân khó chọn lựa, đặc biệt những người đang có các chứng bệnh. Các dược sĩ có thể là một nguồn thông tin cần thiết khi bệnh nhân cần giúp đỡ trong việc chọn lựa và sử dụng hợp lý các sản phẩm không cần toa bác sĩ này.
CÁC THÔNG TIN VỀ CẢM LẠNH VÀ CẢM CÚM | |
Cảm Lạnh | Cảm Cúm |
- Cảm lạnh do trên 200 loại virut gây ra, nhưng đa số các trường hợp bị cảm lạnh là do các virut rhinovirus gây ra. | - Các virut cúm A và B lây nhiễm cho người gây ra các đợt dịch bộc phát mỗi năm ở Hoa Kỳ. |
- Mùa cảm lạnh thường bắt đầu từ cuối tháng Tám đến đầu tháng Tư. | - Mùa cúm thường bắt đầu vào tháng Mười và tiếp tục kéo dài đến cuối tháng Năm. Virut cúm hoạt động mạnh nhất vào tháng Giêng hoặc tháng Hai. |
- Virut đi vào cơ thể thông qua các màng nhầy ở mũi, miệng, mắt, và có thể dễ dàng tiếp xúc với virut qua các hạt nhỏ li ti truyền trong không khí khi bệnh nhân hắt hơi hoặc ho, qua tiếp xúc trực tiếp với người bị nhiễm bệnh, và tiếp xúc trực tiếp với các vật dụng bị nhiễm trùng rồi chạm vào miệng, mắt, hoặc mũi. | - Cách lây truyền tương tự như các virut cảm lạnh. |
- Trẻ em thường bị từ 6 – 10 lần cảm lạnh trong một năm. - Người thành niên thường bị từ 2 – 4 lần cảm lạnh trong một năm. | - Trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ mang thai, và những người với một số chứng bệnh sẽ có nhiều nguy cơ phát sinh các biến chứng liên quan đến cảm cúm. |
- Chưa có phương pháp nào có thể ngăn ngừa hoàn toàn chứng bệnh này, nhưng vệ sinh tay cẩn thận có thể giúp làm thuyên giảm đáng kể sự lây nhiễm của các virut gây cảm lạnh. | - Chủng ngừa cúm mỗi năm là cách phòng chống virut cúm hiệu quả nhất. Cơ quan CDC của Hoa Kỳ đề xuất chủng ngừa cúm hàng năm cho tất cả mọi người từ 6 tháng tuổi trở lên. |
- Có nhiều loại thuốc không cần toa bác sĩ (over-the-counter_OTC) được bán trên thị trường có thể giúp thuyên giảm các triệu chứng thông thường. | - Thuốc kháng virut theo toa bác sĩ có thể được cho sử dụng để giúp giảm bớt thời gian và tính nghiêm trọng của bệnh cúm. - Có nhiều loại thuốc không cần toa bác sĩ được bán trên thị trường giúp quản lý các triệu chứng thông thường. |
Các Triệu Chứng Liên Quan Đến Cảm Lạnh và Cảm Cúm
Các dấu hiệu và các triệu chứng của bệnh cảm lạnh thường bị lầm lẫn với các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh cảm cúm hoặc các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp khác. Sau đây là danh sách các triệu chứng thường liên quan đến cảm lạnh và cảm cúm.
Sự Khác Biệt Giữa Các Triệu Chứng Cảm Lạnh và Cảm Cúm | |
Cảm Lạnh | Cảm Cúm |
Đau cổ tăng dần hoặc ngứa cổ. Sốt rất hiếm khi xảy ra, nhưng nếu xuất hiện, chỉ là sốt nhẹ (hiếm khi vượt quá 100oF hoặc 37,7oC). Các triệu chứng có xu hướng phát triển trong vòng 1-3 ngày. | Đau họng hiếm khi xảy ra. Các triệu chứng bắt đầu nhanh (trong vòng 3 – 6 giờ), đặc biệt là lên cơn sốt. Sốt cao (100oF đến 102oF hoặc 37,7oC đến 38,8oC) thường xảy ra trong ít nhất 80% các trường hợp bị cảm cúm. Thân nhiệt cao hơn 100oF (37,7oC) trong vòng 3 – 4 ngày thường liên quan đến cảm cúm. |
Ho khan, có đờm thường xảy ra với bệnh cảm lạnh. | Ho không có đờm thường xảy ra với bệnh cảm cúm. |
Đau nhức cơ thể ở mức độ nhẹ. | Đau nhức cơ thể nghiêm trọng. |
Nghẹt mũi xảy ra rất phổ biến và thường thuyên giảm trong vòng 1 tuần. | Nghẹt mũi hiếm khi xảy ra. |
Cảm giác ớn lạnh hiếm khi xảy ra. | 60% số bệnh nhân bị ớn lạnh. |
Cảm thấy hơi mệt mỏi. | Mệt mỏi từ vừa phải đến nghiêm trọng. |
Hắt hơi. | Hắt hơi hiếm khi xảy ra. |
Nhức (đau) đầu hiếm khi xảy ra. | Nhức (đau) đầu thường xảy ra (trong khoảng 80% các trường hợp bị cảm cúm). |
Khó chịu ở ngực từ nhẹ đến vừa phải. | Thường bị khó chịu ở ngực nghiêm trọng. |
Các Sản Phẩm Không Cần Toa Bác Sĩ
Để quản lý các triệu chứng cảm lạnh và cảm cúm, các sản phẩm không cần toa bác sĩ (nonprescription product) bao gồm các loại thuốc chống sung huyết (decongestant: có tác dụng thông mũi), kháng histamin, thuốc làm tan dịch nhầy trong đường hô hấp (expectorant), thuốc ức chế phản ứng ho (cough suppressant), thuốc giảm sốt (antipyretics)/thuốc giảm đau (analgesics), các sản phẩm gây mê/tê (anesthetic product) và các sản phẩm kháng vi sinh vật(antiseptic product). Các sản phẩm này được bán trên thị trường với nhiều dạng liều lượng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của các cộng đồng bệnh nhân khác nhau. Khi đề xuất bất kỳ loại sản phẩm nào trong số này, các chuyên gia y tế nên đánh giá các triệu chứng, các tình trạng bệnh lý, bệnh sử về dị ứng, và chế độ thuốc đang sử dụng của bệnh nhân, cũng như lối sống và các sở thích cá nhân. Bên cạnh các sản phẩm trị cảm lạnh và cảm cúm được bào chế cho trẻ em, còn có các sản phẩm được bào chế đặc trị cho cộng đồng bệnh nhân bị tiểu đường (đái tháo đường), các sản phẩm này không chứa đường, cồn, dextrose, sucrose, sorbitol, natri (sodium), fructose, glycerin, và phẩm màu, cũng như các sản phẩm dành cho những bệnh nhân bị cao huyết áp, chẳng hạn như các sản phẩm Coricidin HP (Schering-Plough HealthCare), hoàn toàn không có tác dụng thông mũi. Những hỗn hợp các sản phẩm trị ho, cảm lạnh, và cảm cúm bao gồm các sản phẩm đơn lẻ hoặc phối hợp có tác dụng làm giảm nhiều triệu chứng. Để tránh việc sử dụng không cần thiết các loại thuốc hoặc trị liệu trùng lấp, bệnh nhân nên được các chuyên gia y tế tư vấn để biết cách sử dụng các sản phẩm chứa nhiều thành phần hóa học.
Các Nhóm Thuốc Được Dùng Để Quản Lý Các Triệu Chứng Liên Quan Đến Cảm Lạnh và Cảm Cúm | ||||
Nhóm Thuốc | Các Ví Dụ về Các Thành Phần Hoạt Tính | Chỉ Định | Các Tác Dụng Gây Hại | Chú Thích |
Thuốc gây mê/tê khu vực (Local anesthetics) | Benzocaine hoặc dyclonine hydrochloride | Quản lý và giúp thuyên giảm tạm thời tình trạng đau cổ họng. | Các bệnh nhân có bệnh sử bị dị ứng với các loại thuốc gây mê/tê nên tránh sử dụng các sản phẩm chứa benzocaine. Các bệnh nhân không nên ăn hoặc uống cho đến khi cảm giác tê biến mất. | Các loại thuốc này có thể được sử dụng cứ mỗi 2 – 4 giờ khi cần thiết. Một số sản phẩm cũng chứa các chất kháng vi sinh vật khu vực (ví dụ, cetylpyridinium chloride, hexylresorcinol) và/hoặc camphor hoặc menthol (được tổng hợp từ tinh dầu bạc hà). |
Thuốc chống sung huyết (Decongestants) | 1. Thuốc chống sung huyết uống bằng miệng: pseudoephedrine và phenylephrine. 2. Thuốc chống sung huyết trong mũi bao gồm ephedrine, epinephrine, levmetamfetamine, naphazoline, phenyleprhine, tetrahydrozoline và các loại thuốc chống xung huyết tác dụng dài hạn như oxymetazoline. | Các loại thuốc này được sử dụng để điều trị tình trạng tắc nghẽn xoang và mũi và được chỉ định để hạ giảm tạm thời tình trạng nghẹt mũi và ống Eustachian, và tình trạng ho đi kèm với chảy nước mũi (postnasal drip). | Các tác dụng gây hại phổ biến liên quan đến việc sử dụng các loại thuốc chống sung huyết uống bằng miệng bao gồm mất ngủ, hiếu động, lo âu, căng thẳng tinh thần, đánh trống ngực và tim đập nhanh. | 1. Việc sử dụng các loại thuốc chống sung huyết có thể làm trầm trọng một số chứng bệnh mẫn cảm với kích thích các cơ chế adrenergic (nghĩa là, chứng cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch vành, phì đại tuyến tiền liệt [prostatic hypertrophy], và tăng áp suất trong mắt). 2. Sử dụng quá nhiều các loại thuốc chống sung huyết trong khoang mũi có liên quan đến sung huyết mũi tái phát (rhinitis medicamentosa), do đó việc sử dụng nên giới hạn trong khoảng từ 3 – 5 ngày để tránh xảy ra tình trạng này. |
Thuốc giảm đau hệ thống (Systemic analgesics) | Acetaminophen, acetylsalicylic acid, ibuprofen, hoặc naproxen. | Giúp giảm đau, nhức đầu, và sốt liên quan đến cảm lạnh và cảm cúm. | Khó chịu đường ruột và dạ dày, buồn nôn, nôn mửa. | Các bệnh nhân có bệnh sử bị khó chịu đường ruột và dạ dày hoặc bị suy gan hoặc suy thận, hoặc các bệnh nhân đang sử dụng các sản phẩm dược tương tác với các loại thuốc này nên hết sức thận trọng trong khi sử dụng. |
Thuốc ho tan dịch nhầy (Cough expectorants) | Guaifenesin | Được chỉ định để hạ giảm các triệu chứng của tình trạng ho khan và ho có đờm cấp tính. | Buồn nôn, nôn mửa, và khó chịu đường ruột và dạ dày. | Chưa thấy có các tương tác thuốc. |
Thuốc ức chế ho (Antitussives) | Dextromethorphan (thường được tìm thấy trong các sản phẩm trị ho không cần toa bác sĩ). | Được chỉ định để ức chế tình trạng ho không đờm do hóa chất hoặc kích thích đường hô hấp. | Buồn nôn, nôn mửa, khó chịu đường ruột và dạ dày, choáng váng, táo bón. | Nên tránh sử dụng chung thuốc dextromethorphan với các loại thuốc ức chế men monoamine oxidase (monoamine oxidase inhibitor) vì nguy cơ phát triển hội chứng tăng serotonin (serotonergic syndrome). |
Các Mẫu Sản Phẩm Trị Ho và Cảm Lạnh Không Cần Toa Bác Sĩ |
Viên Ngậm (Lozenge)/Thuốc Xịt Mũi (Spray)/Thuốc Nước Trị Viêm Họng - Cepacol lozenges - Cepacol Dual Relief Spray - Cepastat lozenges - Chloroseptic lozenges, sprays, medicated strips (băng thuốc dán) - Cold-Eeze lozenges with zinc - Hall’s Sore Throat Lozenges - Ricola herb sore throat lozenges - Sucrets sore throat lozenges - Tylenol Cold Sore throat liquid |
Thuốc Chống Sung Huyết (Decongestants: Thuốc Thông Mũi) Thuốc Chống Sung Huyết Hệ Thống (Systemic decongestants) - Advil Cold & Sinus - Aleve-D Sinus & Cold - Claritin-D - Mucinex-D - Sudafed - Sudafed PE - Triaminic Thin Strips Cold with Stuffy Nose - Tylenol Sinus - Zyrtec-D Thuốc Chống Sung Huyết Trong Mũi (Intranasal decongestants) - Afrin Original Nasal Spray - Dristan - Little Noses Decongestants Nose Drops - Mucinex Nasal Spray - Nasalcrom - Neosynephrine - Sudafed OM - Vicks Early Defense Nasal Gel - Vicks Sinex Nasal Spray Thuốc Hít Mũi Chống Sung Huyết (Nasal Decongestant Inhalers) - Benzedrex Inhaler - Vicks Vapor Inhaler |
Thuốc Tan Đờm (Expectorants) - Benylin Wet Cough (được bán dưới dạng thuốc dành cho trẻ em) - Humibid - Mucinex - Robitussin Chest Congestion |
Thuốc Ức Chế Ho (Antitussives) - Creomulsion Cough Syrup - Delsym Cough Syrup - Dimetapp - Mucinex DM - Robitussin Cough Long Acting - Sucrets DM Cough Formula - Triaminic Long Acting Cough - Tylenol Cold & Cough - Vicks Formula 44 - Vicks Nyquil |
Các Sản Phẩm Phối Hợp (Combination Products) - Advil Cold & Sinus - Aleve D Sinus and Cold - Alka-Seltzer Mucus and Congestion - Alka-Seltzer Plus Cold and Sinus - Benadryl - Claritin - Contac Cold + Flu - Coricidin HBP - Delsym - Dimetapp Cold and Cough - Dimetapp Nighttime Cold and Congestion - Motrin Cold - Mucinex D - Mucinex DM - Mucinex Fast-Max Cold, Flu and Sore Throat - Mucinex Multi Symptom Cold - Nyquil Cold and Flu Relief - Pediatric Vicks Formula 44e Cough and Congestion - Pedicare Children’s Fever Reducer Plus Flu - Robitussin - Sudafed - Theraflu Cold Products - Triaminic Chest and Nasal Congestion Liquid - Triaminic Cold and Cough - Tylenol Cold - Vicks Dayquil Liquicaps - Vicks Formula 44 - Vicks Nature Fusion Cold and Flu Relief - Vicks Nyquil - Vicks VapoSyrup - Zicam |
Các Sản Phẩm Trị Ho Không Cần Toa Bác Sĩ
Để điều trị và quản lý tình trạng ho, các loại thuốc ức chế ho (antitussive), thuốc tan đờm (expectorant), và các loại thuốc ức chế ho dạng bôi, hít, hoặc viên ngậm (topical antitussive) đang được bán trên thị trường. Guaifenesin là loại thuốc tan đờm duy nhất được cơ quan FDA chấp thuận và được chỉ định để giúp thuyên giảm các triệu chứng của tình trạng ho có đờm cấp tính. Các loại thuốc ức chế ho không cần toa bác sĩ, uống bằng miệng, được FDA chấp thuận đang được bán trên thị trường bao gồm codeine, dextromethorphan, và diphehydramine. Về liều lượng của các loại thuốc ức chế ho, codeine được phân loại là thuốc narcotic danh mục C-V (Schedule C-V) và được bán không cần toa bác sĩ ở nhiều tiểu bang Hoa Kỳ. Codeine được chỉ định cho việc ức chế tình trạng ho không tạo đờm(nonproductive cough) gây ra bởi khó chịu đường hô hấp do hóa chất hoặc cơ học (mechanical respiratory tract irritation). Codeine tác động chủ yếu lên phần cuối thân não (medulla oblongata) để làm tăng ngưỡng ho (cough threshold); khi được sử dụng ở liều lượng của thuốc ức chế ho, codeine có tính độc thấp và có ít nguy cơ bị nghiện thuốc. Phần lớn các loại thuốc ức chế ho không cần toa bác sĩ chứa dextromethorphan, được chỉ định cho việc ức chế tình trạng ho không tạo đờm gây ra bởi khó chịu đường hô hấp do hóa chất hoặc cơ học. Diphenhydramine được phân loại là thuốc kháng histamin thế hệ đầu tiên không chọn lọc (nonselective first-generation antihistamine) với các đặc tính an thần và chặn hoạt động của acetylcholine (một chất dẫn truyền thần kinh, làm tăng nhịp tim và giãn mạch máu, tăng tiêu hóa, giảm hoạt động của bàng quang). Diphenhydramine tác động chủ yếu lên phần cuối thân não để làm tăng ngưỡng ho. Thuốc này được chỉ định cho việc ức chế tình trạng ho không tạo đờm gây ra bởi khó chịu đường hô hấp do hóa chất hoặc cơ học. Camphor và menthol là hai loại thuốc ức chế ho dạng bôi, hít, viên ngậm duy nhất được cơ quan FDA chấp thuận.
Kết Luận
Trước khi đề xuất bất kỳ loại dược phẩm nào trong số này, các chuyên gia y tế phải luôn luôn kiểm tra tiền sử bị dị ứng, tiền sử bệnh và các loại thuốc đang sử dụng của bệnh nhân để tìm ra các tương tác hoặc chống chỉ định có thể xảy ra. Những phụ nữ mang thai và những phụ nữ đang cho con bú(lactating female) và những người với những chứng bệnh mãn tính phải luôn luôn kiểm tra với bác sĩ trước khi sử dụng bất kỳ loại thuốc không cần toa bác sĩ nào. Trong lúc tư vấn, các chuyên gia y tế nên nhắc nhở bệnh nhân đọc nhãn dược phẩm trước khi sử dụng và kiểm tra các thành phần thuốc (ingredient), đặc biệt nếu như sử dụng nhiều dược phẩm để tránh vấn đề trị liệu gấp đôi hoặc quá liều. Điều quan trọng là bệnh nhân nên tuân theo các liều lượng được đề xuất, các hướng dẫn sử dụng, và thời gian sử dụng. Để đảm bảo liều lượng thích hợp và độ chính xác, điều hết sức quan trọng là phải nhắc nhở bệnh nhân/người chăm sóc bệnh nhân luôn luôn sử dụng các dụng cụ do đã được kiểm tra khi dùng sản phẩm nước, và đọc tất cả các nhãn dược phẩm trước khi cho trẻ em sử dụng thuốc. Cha mẹ/người chăm sóc bệnh nhân chỉ nên cho trẻ em sử dụng các sản phẩm không cần toa bác sĩ được sản xuất dành cho trẻ em; khi có nghi ngờ về tính không hợp lý hoặc liều lượng thuốc sử dụng, bệnh nhân nên kiểm tra với bác sĩ khoa nhi hoặc dược sĩ.
Trong lúc tư vấn, các chuyên gia y tế nên nắm lấy cơ hội để nhấn vào điểm quan trọng của việc chủng ngừa cúm mỗi năm và đề xuất những biện pháp không sử dụng thuốc khác nhau mà các biện pháp này có thể giúp làm thuyên giảm các triệu chứng cảm lạnh và cảm cúm, chẳng hạn như việc sử dụng những máy làm bay hơi (vaporizer) hoặc máy tạo độ ẩm (humidifier), bình xịt mũi saline, hoặc các băng dán Breath Right (GlaxoSmithKline) để giảm sung huyết (giúp thông mũi). Bệnh nhân nên uống nhiều nước và nghỉ ngơi đầy đủ. Các chuyên gia y tế cũng nên khuyến khích bệnh nhân đi khám bác sĩ khi bị tình trạng viêm họng kéo dài, ho kéo dài hơn 14 ngày, trở xấu hoặc các triệu chứng kéo dài, sốt cao, hoặc có các dấu hiệu bị nhiễm trùng.
Dầu cá liều lượng cao được bổ sung vào chế độ “điều trị mục tiêu” của trị liệu thuyên giảm bệnh truyền thống (conventional disease-modifying treatment) cho chứng viêm khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis – RA: viêm thấp khớp) được phát hiện có các kết quả khả quan, theo một nghiên cứu ngẫu nhiên.
Theo bác sĩ Susanna M. Proudman và các đồng nghiệp tại trường Đại Học Adelaide (University of Adelaide), Úc, trong số các bệnh nhân tiếp nhận dầu cá phối hợp với 3 loại thuốc methotrexate, sulfasalazine, và hydroxychloroquine, khả năng điều trị thất bại trong 1 năm tỏ ra thấp hơn so với những người chỉ được điều trị bằng 3 loại thuốc này (tỷ lệ rủi ro: 0,28, 95% khoảng tin cậy: 12-0,63, xác suất = 0,002).
Ngoài ra, tỷ lệ thuyên giảm ở nhóm sử dụng dầu cá cũng cao hơn một cách đáng kể so với nhóm chỉ sử dụng 3 loại thuốc (tỷ lệ rủi ro: 2,17, 95% khoảng tin cậy: 1,07-4,42, xác suất= 0,03), theo báo cáo của các nhà nghiên cứu trên Tạp Chí Định Kỳ về Các Bệnh Thấp Khớp (Annals of Rheumatic Diseases)
Các nhà nghiên cứu quan sát thấy rằng, “ngoài lợi ích cho các khớp ở các bệnh nhân bị viêm thấp khớp, dầu cá còn có lợi cho tình trạng gia tăng nguy cơ tim mạch ở bệnh viêm thấp khớp, bao gồm nguy cơ gia tăng bị tử vong do bệnh tim mạch, với nguy cơ bị đột tử tim tăng gấp 2 lần.
Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy rằng dầu cá, chứa EPA và DHA, có thể mang lại các lợi ích lâm sàng (symptomatic benefit) cho các bệnh nhân bị viêm thấp khớp.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đó hầu như không phù hợp với biện pháp quản lý bệnh viêm thấp khớp hiện hành, vì các bệnh nhân trong các thử nghiệm đó mắc bệnh lâu ngày và các liều lượng thuốc chống viêm khớp thuyên giảm bệnh (disease-modifying anti-rheumatic drug – DMARD) không thay đổi trong suốt cuộc thử nghiệm.
Tuy nhiên, phương pháp điều trị hiện hành tập trung tiến hành điều trị sớm, trong vòng một năm sau khi xuất hiện triệu chứng, và điều chỉnh phương pháp trị liệu để đáp ứng với mục tiêu làm giảm hoạt động bệnh hoặc thuyên giảm.
Bác sĩ Proudman và các đồng nghiệp đã ghi danh 140 bệnh nhân mới bị viêm thấp khớp, ngẫu nhiên chỉ định họ sử dụng dầu cá (EPA cộng DHA) liều cao (5,5g/ngày) hoặc liều thấp (0,4g/ngày). Nhóm sử dụng liều thấp được đại diện cho nhóm kiểm soát (control group), vì liều lượng thấp này không liên quan đến các hiệu ứng lâm sàng trong các nghiên cứu trước đây.
Chế độ 3 loại thuốc ban đầu bao gồm methotrexate (Trexall), 10 mg mỗi tuần, sulfasalazine (Azulfidine) 500 mg mỗi ngày, và hydroxychloroquine (Plaquenil), 200 mg 2 lần mỗi ngày.
Các liều lượng có thể được tăng lên theo một mô hình được cấu trúc sẵn nếu các khớp bị sưng có số lượng từ hai trở lên, nếu tỷ lệ kết tủa hồng cầu (erythrocyte sedimentation rate: được dùng để đo mức độ viêm) hoặc mức C-reactive protein vẫn tiếp tục tăng, hoặc nếu sự đau nhức, tình trạng mệt mỏi, hoặc tình trạng đơ cứng vào sáng sớm vẫn kéo dài.
Việc sử dụng các loại thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs) và các loại thuốc corticosteroid uống bằng miệng đã không được đề xuất.
Trị liệu không thành công được định nghĩa là nhu cầu bổ sung thêm leflunomide (Arava) vào chế độ 3 loại thuốc.
Vào thời điểm 1 năm, 10,5% số bệnh nhân sử dụng dầu cá và 32,1% số bệnh nhân trong nhóm kiểm soát đã bắt đầu sử dụng leflunomide (Arava).
Nhóm sử dụng dầu cá có tỷ lệ thất bại duy trì ở mức thấp hơn một cách đáng kể sau khi điều chỉnh việc hút thuốc lá, mức kháng thể anti-cyclic citrullinated peptide cơ sở, và đoạn kháng nguyên epitote chung (tỷ lệ rủi ro: 0,24, 95% khoảng tin cậy: 0,10-0,54, xác suất = 0,0006).
Tỷ lệ thuyên giảm cũng cao hơn một cách đáng kể sau khi điều chỉnh các yếu tố trên (tỷ lệ rủi ro: 2,09, 95% khoảng tin cậy: 1,02-4,30, xác xuất = 0,04).
Chỉ có một bệnh nhân trong nhóm kiểm soát đã bắt sử dụng một chất sinh học (biologic agent: được làm từ sinh vật sống giúp ngăn ngừa, chẩn đoán, hoặc điều trị các chứng bệnh) vào thời điểm 1 năm.
Các sinh hoạt hàng ngày được cải thiện một cách đáng kể trong cả hai nhóm. Không có sự khác biệt về số bệnh nhân cần sử dụng các loại thuốc steroid trong thời gian thử nghiệm, và liều lượng methotrexate trung bình giữa các nhóm cũng không khác nhau.
Vào lúc bắt đầu, 38% số bệnh nhân trong nhóm dầu cá và 35% số bệnh nhân trong nhóm kiểm soát sử dụng các loại thuốc kháng viêm không steroid, nhưng vào thời điểm 1 năm, chỉ có một bệnh nhân trong nhóm kiểm soát vẫn tiếp tục chế độ thuốc này.
Hai nhóm có tỷ lệ tương đương về số bệnh nhân bị các sự cố bệnh lý nghiêm trọng, 11,6% ở nhóm dầu cá và 3,8% ở nhóm kiểm soát (xác suất = 0,13).
Mặc dù các sự cố bệnh lý nghiêm trọng thường xảy ra ở nhóm dầu cá hơn, nhưng theo các nhà nghiên cứu quan sát thì “không có chứng cứ cho thấy có liên quan đến việc sử dụng dầu cá”.
Có một bệnh nhân báo cáo bị một số sự cố về tim, bệnh nhân này bị bệnh thiếu máu tim cục bộ (ischemic heart disease) và rung tâm nhĩ (atrial fibrillation), và có một bệnh nhân với bệnh cao huyết áp không được kiểm soát đã xuất hiện tình trạng xuất huyết trong não, bệnh nhân này đã được điều trị bằng thuốc clopidogrel và đã ngưng sử dụng dầu cá cách đây 5 tháng.
Bác sĩ Proudman và các đồng nghiệp lưu ý rằng, “phương pháp thiết kế của nghiên cứu này đã cho phép các tác dụng của dầu cá được đánh giá theo bối cảnh của liệu pháp DMARD hiện hành cho chứng viêm thấp khớp”.
Các lợi ích của dầu cá đối với chứng viêm thấp khớp là một chứng cứ sinh học hợp lý. Các nhà nghiên cứu giải thích rằng, vì các axit béo omega-3 có khả năng ức chế quá trình phóng thích các yếu tố gây viêm và các phân tử peptit (peptides), bao gồm prostaglandin E2 và leukotriene B4, cũng như yếu tố hoại tử khối u alpha (tumor necrosis factor alpha) - tất cả các yếu tố này đều là mục tiêu của các phương pháp điều trị hiện nay.
Họ cũng chỉ ra rằng chỉ có một bệnh nhân được điều trị sinh học sau 1 năm, điều này cho thấy có khả năng tiết kiệm bằng dầu cá và trị liệu 3 loại thuốc truyền thống, nhờ đó ít nhất nó có thể trì hoãn được việc điều trị sinh học”.
Họ đi đến kết luận rằng, “kế hoạch thử nghiệm này, với những sự điều chỉnh rất nhỏ, được xem là phương pháp tiêu chuẩn trong bệnh viện của chúng tôi sau khi hoàn tất cuộc thử nghiệm, mở đường cho khả năng ứng dụng trong các môi trường điều trị trong thực tế”.
Đa số các loại thuốc hoạt động bằng cách liên kết với protein và bổ sung cho các hoạt động của protein, protein là các bộ máy siêu nhỏ được cấu tạo bằng các phân tử có chức năng thực hiện những nhiệm vụ quan trọng trong tế bào. Các thông tin chi tiết về cấu trúc và chức năng của protein giúp các nhà khoa học phát minh các loại thuốc có khả năng ngăn chặn các protein hoặc những tương tác với chúng. Tuy nhiên, ngay cả khi một loại thuốc được thiết kế để nhắm vào một loại protein nào đó, thì loại thuốc này cũng có thể ảnh hưởng đến các protein khác, tạo ra các tác dụng phụ. Cách thức hoạt động của các loại thuốc cũng có thể bị ảnh hưởng bởi khả năng hấp thụ và khả năng xử lý thuốc của cơ thể một người.
Các phát hiện từ nghiên cứu do Viện Quốc Gia về Sức Khỏe(National Institutes of Health) của Hoa Kỳ tài trợ đã đưa ra những manh mối về cơ chế hoạt động của một số loại thuốc.
Các Loại Thuốc Kháng Sinh (Trụ Sinh), Kháng Virut
Các loại thuốc kháng sinh (trụ sinh) và các loại thuốc kháng virut (antiviral drug) tấn công các protein khi các protein này được phát hiện trong vi khuẩn hoặc trong virut mục tiêu và khi các protein này đóng vai trò quan trọng cho sự tồn tại hoặc giúp gia tăng số lượng của sinh vật gây bệnh. Trong nhiều trường hợp, các mục tiêu tấn công là các men xúc tác (enzyme), đây là các protein có tác dụng làm tăng tốc độ các phản ứng hóa học. Ví dụ, thuốc kháng sinh penicillin tấn công một enzyme mục tiêu, enzyme này có vai trò xây dựng các thành tế bào của vi khuẩn, làm cho vi khuẩn gây bệnh này bị nổ tung và chết đi. Các loại thuốc ức chế men thủy phân protein (protease inhibitors) chẳng hạn như thuốc saquinavir có tác dụng làm ngưng hoạt động của một loại men giúp virut HIV lan đi trong cơ thể.
(Trong hình) Men thủy phân protein HIV (HIV protease) với thuốc saquinavir.
Các Loại Thuốc Chống Ung Thư (Anticancer Agents)
Nhiều loại thuốc chống ung thư có tác dụng tiêu diệt các tế bào phân chia quá nhanh, nhưng các loại thuốc này cũng có thể ảnh hưởng đến các tế bào phân chia bình thường. Ví dụ, thuốc paclitaxel (Taxol), được chỉ định sử dụng cho bệnh ung thư vú, ung thư buồng trứng và các bệnh ung thư khác, hoạt động bằng cách liên kết với protein tubulin (protein này có dạng hình cầu, là thành phần cơ bản cấu tạo nên các vi ống), ngăn chặn sự hình thành của các cấu trúc được gọi là vi ống (microtublule), các cấu trúc ống này rất cần thiết cho quá trình phân bào (cell division). Các loại thuốc chống ung thư thế hệ mới có khả năng phân biệt cao hơn, thường tấn công các protein quan trọng mà chúng hoạt động một cách không bình thường trong một số dạng bệnh ung thư. Một trong số các loại thuốc thế hệ mới này, imatinib mesylate (Gleevec), có khả năng ngăn chặn một lộ trình trao đổi thông tin tế bào, lộ trình này luôn luôn “bật lên” trong một dạng bệnh ung thư máu có tên là bệnh bạch cầu tủy xương mãn tính (chronic myelogenous leukemia). Mục tiêu của thuốc Gleevec là một loại protein có tên kinase (một loại enzyme xúc tác quá trình chuyển dời nhóm photphat), và thiết kế của loại thuốc này được thực hiện sau nhiều năm thử nghiệm dựa trên cơ sở sinh học về cơ chế tăng trưởng của các tế bào ung thư.
(Trong hình) Protein tubulin với thuốc Taxol.
Các Loại Thuốc Kháng Histamin, Chống Trầm Cảm, và Aspirin
Một số loại thuốc được chỉ định sử dụng rộng rãi nhất có tác dụng ngăn chặn các protein có tên là G protein-coupled receptor, các protein này đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đi các tín hiệu để cho phép tế bào phản ứng lại môi trường xung quanh nó. Thuốc loratadine (Claritin) giúp thuyên giảm các tình trạng dị ứng bằng cách chặn thụ thể histamin (histamine receptor); các loại thuốc chống trầm cảm (chẳng hạn như Prozac, Paxil và Zoloft) tác động lên thụ thể serotonin; và các loại thuốc chặn beta (beta-blocker) điều trị bệnh tim bằng cách can thiệp vào thụ thể adrenergic (adrenergic receptor). Tiến trình truyền tín hiệu có thể bị chặn lại bằng cách nhắm vào các enzyme tạo ra một phân tử tham gia vào quá trình này. Đây chính là cơ chế hoạt động của thuốc aspirin – nó có tác dụng ức chế men cyclooxygenase, men này tạo ra các phân tử báo hiệu bị đau nhức(pain-signal molecule) có tên là prostaglandin.
(Trong hình) Thụ thể adrenergic với thuốc carazolol, một loại thuốc chặn beta (beta-blocker).
Các Loại Thuốc Giảm Cân, Các Loại Thuốc Chặn Cholesterol
Các loại thuốc được sử dụng để kiểm soát cân nặng hoặc kiểm soát cholesterol cũng hoạt động bằng cách tương tác với các protein cụ thể. Thuốc giảm cân orlistat (Xenical hoặc Alli) có tác dụng ngăn chặn hoạt động của men thủy phân chất béo của tuyến tụy (pancreatic lipase), giảm số lượng chất béo được hấp thụ từ thực phẩm. Các loại thuốc giảm cholesterol, chẳng hạn như atorvastatin (Lipitor) và simvastatin (Zocor), có tác dụng ngăn chặn hoạt động của men xúc tác quá trình khử HMG-CoA (HMG-CoA reductase), đây là một loại enzyme tham gia vào quá trình hình thành cholesterol.
(Trong hình) Men thủy phân chất béo của tuyến tụy với một loại thuốc ức chế tương tự như thuốc orlistat.
Các Định Hướng Trong Tương Lai
Với sự hiểu biết sâu rộng hơn về mối quan hệ đặc biệt giữa một loại thuốc và protein mục tiêu (và không mục tiêu), các nhà nghiên cứu đang sử dụng một loạt các dữ liệu có sẵn để xác định và kiểm tra các loại thuốc được cơ quan FDA của Hoa Kỳ chấp thuận cho sử dụng và để dự đoán các tác dụng phụ có thể xảy ra. Điều này có thể giảm bớt được thời gian và phí tổn giới thiệu thuốc vào thị trường. Các nhà khoa học cũng biết được nhiều hơn về cách thức các loại gen trong cơ thể của một cá nhân có thể ảnh hưởng đến tính hiệu quả và tính an toàn của một số loại thuốc. Một lĩnh vực nghiên cứu khác bao gồm việc phát minh các phương pháp mới giúp truyền thuốc đến các bộ phận cụ thể hoặc những khu vực trên cơ thể bị nhiễm bệnh, đồng thời cải thiện các lợi ích trị liệu cũng như giảm bớt các tác dụng phụ.
TƯƠNG TÁC GIỮA STATIN VÀ CÁC LOẠI KHÁNG SINH MACROLIDE
Vào năm 2006, đã có bài viết nói về nguy cơ tương tác thuốc với các loại statin, đặc biệt là lovastatin và simvastatin, khi được phối hợp với các loại thuốc ức chế men đồng phân CYP3A4. Sự có mặt của thuốc simvastatin tương đương(generic simvastatin) và các hướng dẫn thành phần thuốc sẽ làm tăng số lượng bệnh nhân sử dụng liều lượng cao các loại thuốc statin hoặc việc sử dụng cùng lúc với các loại thuốc ức chế CYP3A4. Các đề xuất tránh lovastatin và simvastatin trong lúc đang sử dụng phối hợp các loại thuốc ức chế CYP3A4 được lặp lại trong một tiến trình thay đổi nhãn sản phẩm vào năm 2011. Mặc dù tầm quan trọng của các tương tác tiềm tàng và nguy cơ tiềm ẩn về tính độc hại cơ (muscle toxicity) hỗ trợ cho các đề xuất, nhưng vẫn chưa có các dữ liệu cụ thể về mức độ nguy cơ.
Theo một nghiên cứu quan sát dựa trên cộng đồng, việc chỉ định sử dụng thuốc clarithromycin hoặc erythromycin cùng với một loại thuốc statin, được chuyển hóa bởi men đồng phân CYP3A4, sẽ làm tăng nguy cơ tăng độc tính thuốc statin ở người thành niên lớn tuổi.
“Sự gia tăng nguy cơ mang tính tuyệt đối xảy ra với tỷ lệ khá nhỏ, nhưng các chuyên gia y tế nên thận trọng trong việc kê đơn các loại thuốc mycin khi bệnh nhân đang sử dụng một loại statin”, theo lời của bác sĩ Paul D. Thompson, trưởng khoa tim tại bệnh viện Hartford (Hartford Hospital) ở bang Connecticut, Hoa Kỳ.
Các loại thuốc statin được kê đơn cho hàng triệu bệnh nhân dùng để điều trị bệnh tăng nồng độ lipit trong máu (dyslipidemia) và ngăn ngừa bệnh tim mạch. Cho dù đã có các dữ liệu phân tích về tính an toàn chung, nhưng cơ quan FDA vẫn cảnh báo các khả năng tương tác có thể xảy ra giữa các loại thuốc statin và các loại thuốc kháng virut được dùng để điều trị tình trạng nhiễm HIV và bệnh viêm gan.
Khác với azithromycin, thuốc clarithromycin và erythromycin ức chế men đồng phân CYP3A4, và sự ức chế này làm tăng nồng độ statin trong máu, và statin được chuyển hóa bởi men CYP3A4.
Nguy Cơ Xảy Ra Các Kết Quả Gây Hại
Một nghiên cứu mới đây đã đánh giá nguy cơ về độc tính của thuốc statin khi sử dụng cùng lúc với các loại thuốc kháng sinh macrolide. Các nhà điều tra đã xem xét các dữ liệu của bệnh nhân trên 65 tuổi mà họ thường xuyên sử dụng các loại thuốc statin (lovastatin, simvastatin, atorvastatin) đồng thời tiếp nhận trị liệu bằng thuốc clarithromycin hoặc erythromycin (trên 75 000 bệnh nhân) – các loại thuốc macrolide được biết có khả năng ức chế CYP3A4 – và khoảng 70 000 bệnh nhân tiếp nhận azithromycin, loại thuốc này không ức chế men CYP3A4. Kết quả chính của cuộc nghiên cứu là bệnh nhân được nhập viện với chứng hoại cơ khung(rhabdomyolysis), với các kết quả phụ bao gồm bệnh nhân nhập viện với bệnh thận cấp tính (acute kidney disease), tăng kali huyết (hyperkalemia), và tử vong. Sự cố xảy ra của mỗi kết quả ở các bệnh nhân sử dụng thuốc azithromycin cộng một loại statin đã được so sánh với các bệnh nhân sử dụng clarithromycin hoặc erythromycin cộng một loại statin. Các bệnh nhân ở cả hai nhóm có cùng các đặc điểm nhân khẩu học, đồng phát bệnh, liều lượng statin, và các loại thuốc được sử dụng cùng lúc. Việc cho sử dụng thuốc clarithromycin hoặc erythromycin đã dẫn đến nguy cơ hoại cơ khung cao hơn (nguy cơ tương đối: 2,17), với nguy cơ tuyệt đối tỏ ra rất nhỏ (0,03% so với 0,01% trong số các bệnh nhân). Tình trạng xảy ra bệnh thận cấp tính cũng đã tăng lên (0,26% so với 0,46%) khi thuốc erythromycin và clarithromycin được cho sử dụng với các loại statin so với azithromycin cộng một loại statin. Có khả năng là các sự cố xảy ra của các kết quả đã được đánh giá quá thấp vì các mã bệnh(disease code) được sử dụng để xác định các bệnh nhân.
Quản Lý Khả Năng Tương Tác
Sự tương tác giữa các loại kháng sinh macrolide, có tác dụng ức chế CYP3A4, và statin, được chuyển hóa bởi men này, hiếm khi tạo ra một sự cố gây hại nghiêm trọng. Người ta vẫn chưa rõ tần suất sự kết hợp macrolide-statin tạo ra tính độc hại cơ ít nghiêm trọng, chẳng hạn như đuối cơ hoặc đau cơ, nhưng tình trạng xuất hiện được xem là thường xuyên hơn. Tỷ lệ của một kết quả nghiêm trọng từ sự tương tác này thường không phổ biến và xem ra dễ dàng tránh được. Nghiên cứu do Patel et al cho thấy rằng việc chọn sử dụng một loại thuốc kháng sinh không ức chế men CYP3A4 (ví dụ: azithromycin) là một cách đơn giản nhất để tránh được sự tương tác có thể xảy ra với các loại thuốc statin được men CYP3A4 chuyển hóa. Các loại thuốc kháng vi sinh vật khác có tác dụng ức chế men CYP3A4 bao gồm fluconazole (Diflucan), itraconazole (Sporanox), ketoconazole (Nizoral), posaconazole (Noxafil), voriconazole (Vfend), telithromycin (Ketek), quinupristin/dalfopristin (Synercid), và isoniazid. Ngoài ra, có nhiều thuốc kháng virut ức chế men CYP3A4, bao gồm amprenavir (Agenerase), atazanavir (Reyataz), darunavir (Prezista), fosamprenavir (Lexiva), indinavir (Crixivan), nelfinavir (Viracept), ritonavir (Norvir), saquinavir (Invirase), boceprevir (Victrelis), telaprevir (Incivek), và tipranavir (Aptivus). Không nên cho bệnh nhân sử dụng các loại thuốc này khi họ đang sử dụng các loại statin được men CYP3A4 chuyển hóa.
Loại thuốc statin được chỉ định sử dụng phổ biến nhất trong nghiên cứu của Patel là atorvastatin. Điều đáng tiếc là, các tác giả không thể đánh giá nguy cơ các kết quả gây hại của mỗi loại thuốc statin vì số lượng mẫu nghiên cứu có giới hạn. Tuy nhiên, các loại thuốc ức chế men CYP3A4 chẳng hạn như macrolide làm tăng nồng độ lovastatin và simvastatin trong huyết tương gấp 10 lần, trong khi đó chỉ gia tăng nồng độ atorvastatin gấp 4 lần. Sự khác biệt về độ lớn của các hiệu ứng tương tác có nhiều khả năng là do sự chuyển hóa tiền hệ thống (first-pass metabolism) của lovastatin và simvastatin (>95%) cao hơn so với atorvastatin (khoảng 85%). Mặc dù atorvastatin có khả năng có ít nguy cơ tương tác hơn so với lovastatin hoặc simvastatin, nhưng vẫn không thể cho rằng hoàn toàn không tạo ra nguy cơ. Việc sử dụng một loại statin không được men CYP3A4 chuyển hóa (pravastatin [Pravachol], fluvastatin [Lescol], hoặc rosuvastatin [Crestor]) có thể giảm bớt nguy cơ tương tác với các loại thuốc kháng sinh macrolide. Bệnh nhân cũng nên ngưng sử dụng thuốc statin trong thời gian sử dụng thuốc kháng vi sinh vật và một vài ngày sau đó.
Kết Luận và Các Đề Xuất
Nguy cơ xuất hiện một sự cố gây hại nghiêm trọng do sử dụng cùng lúc thuốc erythromycin hoặc clarithromycin với các loại thuốc statin được men CYP3A4 chuyển hóa là không lớn, nhưng tính nghiêm trọng tiềm tàng đủ lớn để chúng ta nên cố gắng tránh tình trạng tương tác. Tạm thời ngưng sử dụng statin, chọn lựa một loại thuốc statin không được chuyển hóa bởi men CYP3A4, hoặc chọn lựa một loại kháng sinh macrolide không ức chế men CYP3A4 đều là những biện pháp thay thế thích hợp.
Nguồn(Source):
1 comments:
Em thấy page rất hay và hữu ích, e muốn làm cộng tác viên mảng Drugs của page thì phải làm ntn ạ?
Post a Comment