CHẨN ĐOÁN
Bệnh viêm thấp khớp có thể rất khó chẩn đoán. Nhiều chứng bệnh khác cũng giống như vậy, và các triệu chứng của bệnh viêm thấp khớp có thể phát triển một cách âm thầm. Các kết quả xét nghiệm máu và hình chụp X-quang có thể cho thấy không có gì bất thường trong nhiều tháng sau khi tình trạng đau nhức khởi phát. Thậm chí sau khi được chẩn đoán mắc bệnh viêm thấp khớp, nhưng điều hết sức quan trọng là phải xác định chứng bệnh này ở mức độ nhẹ (loại 1) hoặc nghiêm trọng (loại 2) nhằm cho việc điều trị chứng bệnh này một cách hợp lý.
Các phát hiện đặc biệt hoặc các triệu chứng có nhiều khả năng cho thấy việc chẩn đoán bệnh viêm thấp khớp bao gồm tình trạng đơ cứng vào buổi sáng, liên quan đến 3 khớp cùng lúc, bao gồm cả hai bên cơ thể, các khối u nhỏ dưới da, yếu tố thấp khớp (rheumatoid factor – một loại tự kháng thể có phân tử lượng cao, phản ứng chống lại các kháng thể nhóm IgG, và thường xuất hiện ở các bệnh nhân viêm thấp khớp) dương tính, các thay đổi trong các hình chụp X-quang.
Các Xét Nghiệm Máu
Các cuộc xét nghiệm máu khác nhau có thể được sử dụng để giúp chẩn đoán bệnh viêm thấp khớp, xác định mức độ nghiêm trọng của chứng bệnh, và phát hiện các biến chứng của chứng bệnh này.
Yếu Tố Thấp Khớp. Đối với bệnh viêm thấp khớp, các kháng thể tập trung ở màng hoạt dịch của khớp được gọi là yếu tố thấp khớp (rheumatoid factor). Trong khoảng 80% các trường hợp bị viêm thấp khớp, các xét nghiệm máu phát hiện thấy yếu tố thấp khớp. Tuy nhiên, khi yếu tố này xuất hiện ở các bệnh nhân bị đau nhức do viêm khớp cả hai bên cơ thể, thì điều này chính là dấu hiệu rõ ràng của chứng bệnh viêm thấp khớp loại 2. Sự hiện diện của yếu tố thấp khớp cộng với chứng cứ xương bị tổn hại trên hình chụp X-quang cũng cho thấy rằng nhiều khả năng khớp bị tổn hại nghiêm trọng.
Xét Nghiệm Tỉ Lệ Hồng Cầu Lắng Kết Tủa. Xét nghiệm này (erythrocyte sedimentation rate) đo tốc độ các hồng cầu lắng xuống đáy ống nghiệm thủy tinh chứa đầy máu của bệnh nhân. Tỉ lệ lắng kết tủa càng cao thì tình trạng viêm càng nhiều. Tuy nhiên, tỉ lệ lắng kết tủa này có thể khá cao trogn nhiều chứng bệnh từ nhiễm trùng đến tình trạng viêm đến các khối u. Xét nghiệm này không được sử dụng để chẩn đoán, nhưng để giúp xác định mức độ phát triển của chứng bệnh.
Protein C-Reactive. Hàm lượng cao protein C-reactive (CRP) cũng cho thấy tình trạng viêm hoạt tính. Tuy nhiên, bởi vì chứng béo phì cũng làm tăng hàm lượng protein C-reactive (một loại protein do gan sản sinh ra, thường hiện diện với số lượng nhỏ trong huyết thanh, nhưng gia tăng hàm lượng trong các cơn viêm cấp tính - liên quan đến bệnh có khối u, nhiễm trùng mãn tính, hoặc bệnh động mạch vành), do đó bác sĩ nên xem xét đến chỉ số trọng lượng cơ thể (body mass index) của bệnh nhân khi đánh giá hàm lượng protein C-reactive trong thời gian chẩn đoán bệnh viêm thấp khớp.
Xét Nghiệm Kiểm Tra Kháng Thể Kháng Peptit Vòng Chứa Axit Amin Citrulline. Sự hiện diện của các kháng thể đối với các peptit vòng chứa axit amin citrulline (cyclic citrullinated peptides) có thể xác định bệnh viêm thấp khớp nhiều năm trước khi các triệu chứng phát triển. Khi kết hợp với xét nghiệm yếu tố thấp khớp, thì xét nghiệm kiểm tra kháng thể kháng peptit vòng chứa axit amin citrulline (Anti-CCP Antibody Test) là phương pháp dự đoán tốt nhất tình trạng bệnh nhân tiếp tục phát triển bệnh viêm thấp khớp nghiêm trọng.
Các Xét Nghiệm Kiểm Tra Chứng Thiếu Máu. Chứng thiếu máu là một biến chứng phổ biến. Các xét nghiệm máu thường cần thiết để xác định số lượng hồng cầu (hemoglobin và tỉ lệ thể tích huyết cầu) và chất sắt (thụ thể chất sắt hòa tan và ferritin huyết thanh) trong máu.
Các Yếu Tố Tiềm Năng Xác Định Bệnh Viêm Thấp Khớp trong Hoạt Dịch
Việc phân tích hoạt dịch được chứng minh là có thể giúp ích cho việc phát hiện các yếu tố xác định tình trạng hủy hoại khớp, nhưng phương pháp này thường không được thực hiện.
Các Phương Pháp Chụp Hình
Chụp X-quang. Các hình chụp X-quang thường không giúp ích được cho việc phát hiện sự xuất hiện của bệnh viêm thấp khớp ban đầu, bởi vì chúng không hiện ra hình ảnh của các mô mềm.
Chụp Lướt Dexa.
Việc sử dụng một công nghệ có tên là phương pháp chụp lướt sử dụng 2 nguồn năng lượng X-quang để xác định tỉ lệ hấp thụ (dual energy x-ray absorptiometry scan) có thể giúp ích trong việc xác định sớm tình trạng tổn hại xương trong trường hợp bệnh viêm thấp khớp (2 – 27 tháng sau khi chứng bệnh khởi phát). Chứng cứ về sự tổn hại trên hình chụp X-quang cùng với yếu tố thấp khớp gia tăng là một dấu hiệu quan trọng cho thấy tình trạng hủy hoại khớp nghiêm trọng.
Phương Pháp Siêu Âm. Các kỹ thuật siêu đặc biệt có tên là Phương Pháp Chẩn Đoán Bằng Siêu Âm Sử Dụng Hiệu Ứng Doppler Cực Mạnh (power Doppler ultrasonography - PDUS) hoặc Siêu Âm Định Lượng (quantitative ultrasound – QUS) có thể giúp ích được đối với bệnh viêm thấp khớp. Phương pháp PDUS có thể đáng tin cậy trong việc giám sát quá trình viêm ở khớp. Phương pháp QUS (được sử dụng cho chứng loãng xương) có thể phát hiện tình trạng rỗng xương ở các ngón tay, tình trạng này chứng tỏ là một dấu hiệu quan trọng của bệnh viêm thấp khớp ban đầu.
Phương Pháp Tạo Ảnh Cộng Hưởng Từ. Thiết bị tạo ảnh cộng hưởng từ được thiết kế đặc biệt có tên là MRI tạo ảnh tay chân (extremity MRI) có thể có khả năng phát hiện tình trạng ăn mòn xương ở các bàn tay của bệnh nhân mắc bệnh viêm thấp khớp mà các hình chụp X-quang không phát hiện được. Cần có sự đánh giá thêm.
Các Rối Loạn Có Các Triệu Chứng Tương Tự
Các triệu chứng của bệnh viêm thấp khớp có thể tương tự các triệu chứng lành tính của một nệm giường kém chất lượng hoặc có thể nghiêm trọng như bệnh ung thư. Các chấn thương của cơ thể, các tình trạng nhiễm trùng, và quá trình tuần hoàn máu kém nằm trong số nhiều vấn đề mà có thể gây đau nhức.
Viêm xương khớp. Bệnh viêm xương khớp đòi hỏi một số sự lưu ý đặc biệt bởi vì đây là một dạng viêm khớp phổ biến. Chứng bệnh này khác với bệnh viêm thấp khớp ở một số phương diện quan trọng.
- Bệnh viêm xương khớp thường xảy ra ở người cao tuổi.
- Chứng bệnh này chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc vài khớp xương. (Thật vậy, bệnh viêm xương khớp có thể thường bị lầm lẫn với bệnh viêm thấp khớp nếu nó ảnh hưởng đến nhiều khớp trong cơ thể).
- Các khớp ít bị viêm hơn
- Cơn đau tiến triển dần dần
Bệnh Gút. Bệnh Gút (Bệnh Thống Phong – Gout) cũng gây ra tình trạng sưng và đau nhức dữ dội ở khớp, mặc dù thường bắt đầu ở một khớp xương. Tuy nhiên, thỉnh thoảng rất khó để có thể phân biệt giữa bệnh gút ở những người cao tuổi mãn tính và bệnh viêm thấp khớp, vì bệnh gút trong cộng đồng người cao tuổi này có thể xảy ra ở nhiều khớp. Một kết quả chẩn đoán chính xác có thể được thực hiện kết hợp với một bệnh sử chi tiết, các xét nghiệm phòng lab, và sự phát hiện các tinh thể monosodium urate (MSU) ở khớp bị ảnh hưởng, sự hiện diện của các tinh thể này giúp xác định bệnh gút.
Các Chứng Bệnh có Các Triệu Chứng Tương Tự như Bệnh Viêm Thấp Khớp | |
Chứng Bệnh | Nhóm Phụ Chuyên biệt |
Bệnh Viêm Xương Khớp | Bệnh Lyme, viêm khớp do nhiễm trùng, viêm màng trong tim do nhiễm khuẩn, viêm khớp do nhiễm khuẩn mycobacterium và nhiễm nấm, viêm khớp do nhiễm virut |
Bệnh Viêm Khớp Do Nhiễm Trùng | |
Bệnh Viêm Khớp Hậu Nhiễm Trùng hay Bệnh Viêm Khớp Cấp Tính | Hội chứng Reiter (một rối loạn được đặc trưng bởi viêm khớp, viêm mắt và viêm đường tiết niệu), sốt thấp khớp, bệnh viêm đường ruột |
Bệnh Viêm Khớp Do Tinh Thể | Bệnh thống phong (gút) và bệnh thống phong giả |
Các Bệnh Thấp Khớp Tự Miễn Dịch Khác | Viêm mạch hệ thống, luput ban đỏ toàn thân, bệnh xơ cứng bì (scleroderma), bệnh Still (còn gọi là bệnh thấp khớp trẻ em), bệnh Behcet |
Các Bệnh Khác | Hội chứng mệt mõi mãn tính, bệnh viêm gan C, sốt gia đình Địa Trung Hải, bệnh ung thư, bệnh SIDA (AIDS), bệnh tăng bạch cầu (leukemia), bệnh Whipple, bệnh viêm cơ và da, bệnh ban xuất huyết Henoch-Schonlein, bệnh Kawasaki, bệnh sốt ban nốt đỏ (erythema nodosum), bệnh sần đỏ da (erythema multiforme), bệnh mủ da hoại thư mãn tính (pyoderma gangrenosum), viêm khớp vẩy nến (psoriatic arthritis) |
Bảng 1: Các Chứng Bệnh có Các Triệu Chứng Tương Tự như Bệnh Viêm Thấp Khớp
0 comments:
Post a Comment