CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ
Virut varicella-zoster là nguyên nhân gây ra bệnh thủy đậu (đậu mùa, trái rạ) và bệnh herpes zoster (giời leo, giời ăn, giời bò), nhưng cách lây nhiễm của hai chứng bệnh này hoàn toàn khác nhau.
- Cả hai dạng virut hoạt tính varicella và zoster đều có thể gây ra bệnh thủy đậu.
- Virut gây bệnh zona (giời leo, giời ăn, giời bò) ở trạng thái ẩn sẽ không bao giờ gây lây nhiễm.
Nhiễm Bệnh Thủy Đậu. Đa số những người bị nhiễm bệnh thủy đậu (đậu mùa, trái rạ) là do tiếp xúc với các bệnh nhân bị bệnh này. Bệnh thủy đậu thường bị lây nhiễm qua đường hắt hơi, ho, và hơi thở. Chứng bệnh này rất dễ lây nhiễm, do đó chỉ có rất ít người được chủng ngừa có thể tránh được chứng bệnh phổ biến này khi họ tiếp xúc với những người đang bị bệnh.
Nhiều người cũng có thể mắc phải bệnh thủy đậu do tiếp xúc trực tiếp với một vết ban đỏ của bệnh zona (giời leo, giời ăn, giời bò) nếu họ không được tiêm chủng hoặc đã từng bị bệnh thủy đậu (đậu mùa, trái rạ). Trong các trường hợp như thế, sự lây truyền sẽ xảy ra trong giai đoạn virut hoạt tính, lúc đó các mụn nước đang nổi trên da nhưng chưa hình thành vẩy (mày) khô. Bệnh herpes zoster (giời leo, giời ăn, giời bò) chỉ lan ra từ các mụn nước. Người mắc bệnh zona (giời leo, giời ăn, giời bò) không có khả năng truyền virut qua hơi thở hoặc trong lúc ho.
Phát triển bệnh zona. Bệnh zona (giời leo, giời ăn, giời bò) có thể phát triển chỉ từ một tình trạng tái kích hoạt của virut varicella-zoster ở một người đã từng bị bệnh thủy đậu. Nói cách khác, bệnh zona sẽ không được lây truyền từ người sang người qua đường không khí, hoặc bằng cách tiếp xúc trực tiếp với các mụn nước.
Các Nguy Cơ Mắc Bệnh Thủy Đậu (Đậu Mùa, Trái Rạ)
Có khoảng 75 – 90% các trường hợp mắc bệnh thủy đậu xảy ra ở trẻ em dưới 10 tuổi. Trước khi vắcxin được đưa vào sử dụng, có khoảng 4 triệu trường hợp bệnh thủy đậu được báo cáo mỗi năm ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau khi vắcxin ngừa virut varicella được đưa vào sử dụng ở Hoa Kỳ vào năm 1995, tỉ lệ mắc bệnh và nhập viện do bệnh thủy đậu đã giảm xuống gần 90%.
Chứng bệnh này thường xuất hiện vào cuối mùa đông và đầu những tháng mùa xuân. Nó cũng có thể bị lây truyền do tiếp xúc trực tiếp với vết thương mở. (Quần áo, khăn trải giường, chăn, mền, gối, và các vật dụng khác thường không truyền bệnh).
Bệnh nhân bị thủy đậu (đậu mùa, trái rạ) có thể truyền bệnh trong khoảng 2 ngày trước khi các đốm đỏ xuất hiện cho đến khi các mụn nước lành hẳn. Giai đoạn này kéo dài khoảng 5 – 7 ngày. Sau khi vảy khô hình thành, chứng bệnh này không còn khả năng lây truyền.
Đa số các trường học cho phép các học sinh bị bệnh thủy đậu trở lại trường sau 10 ngày cơn bệnh bắt đầu bộc phát. Một số trường học yêu cầu các học sinh ở nhà cho đến khi các mụn nước hoàn toàn biến mất, mặc dù điều này không cần thiết trong việc ngăn ngừa khả năng truyền bệnh.
Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Bệnh Herpes Zoster (giời leo, giời ăn, giời bò)
Có khoảng 500 000 trường hợp mắc bệnh zona (giời leo, giời ăn, giời bò) xuất hiện mỗi năm ở Hoa Kỳ. Những người đã từng bị bệnh thủy đậu (đậu mùa, trái rạ) đều có nguy cơ mắc bệnh zona. Tuy nhiên, bệnh zona xảy ra ở khoảng 10 – 20% những người thành niên này trong cuộc đời của họ, do đó phải tồn tại một số yếu tố để gia tăng nguy cơ bị các cơn bùng phát như thế.
Quá Trình Lão Hóa. Nguy cơ mắc bệnh herpes zoster (giời leo, giời ăn, giời bò) gia tăng ở những người cao tuổi, và con số tổng cộng các trường hợp sẽ gia tăng khi thế hệ baby boomer (những người sinh ra vào những năm 1946 – 1964) càng lớn tuổi. Có một nghiên cứu ước tính rằng một người đến tuổi 85 sẽ có 50% cơ hội mắc bệnh herpes zoster (giời leo, giời ăn, giời bò). Nguy cơ bị đau nhức thần kinh hậu herpes (postherpetic neuralgia: cơn đau nhức kéo dài hơn một tháng sau khi bị nhiễm bệnh zona) cũng có tỉ lệ cao nhất ở những người cao tuổi bị nhiễm bệnh zona, và gia tăng đáng kể sau 50 tuổi. Tình trạng đau nhức này là cơn đau nhức kéo dài, và là biến chứng đáng lo ngại nhất của bệnh zona (giời leo, giời ăn, giời bò).
Ức Chế Miễn Dịch. Những người có hệ miễn dịch bị suy yếu do các chứng bệnh như, bệnh SIDA (AIDS) hoặc bệnh ung thư lúc còn bé, sẽ có nguy cơ mắc bệnh herpes zoster (giời leo, giời ăn, giời bò) với tỉ lệ cao hơn nhiều so với những người có hệ miễn dịch khỏe mạnh. Bệnh herpes zoster xuất hiện ở những người có kết quả HIV dương tính có thể là một dấu hiệu của bệnh SIDA (AIDS) phát triển đến mức hoàn chỉnh. Một số loại thuốc điều trị virut HIV, được gọi thuốc ức chế men thủy phân protein (protease inhibitor), cũng có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh herpes zoster.
Ung Thư. Bệnh ung thư tạo ra nguy cơ phát triển bệnh herpes zoster (giời leo, giời ăn, giời bò) cho bệnh nhân. Những người mắc bệnh Hodgkin là những người có nhiều nguy cơ cao nhất (khoảng 13 – 15% số bệnh nhân phát triển bệnh zona). Khoảng 7 – 9% số bệnh nhân có u lym phô, và khoảng 1 – 3% số bệnh nhân bị các bệnh ung thư khác, phát triển bệnh herpes zoster. Bản thân phương pháp trị liệu hóa học cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh herpes zoster.
Các Loại Thuốc Ức Chế Miễn Dịch. Các bệnh nhân sử dụng một số loại thuốc có tác dụng ức chế hệ miễn dịch sẽ có nguy cơ phát triển bệnh zona (giời leo, giời ăn, giời bò), cũng như các bệnh nhiễm trùng khác. Các loại thuốc này bao gồm:
- Azathioprine(Imuran)
- Chlorambucil(Leukeran)
- Cyclophosphamide(Cytoxan)
- Cyclosporine(Sandimmune, Neoral)
- Cladribine(Leustatin)
- Infliximab(Remicade)
- Adalimumab(Humira)
Các loại thuốc này được sử dụng cho các bệnh nhân thực hiện tiến trình cấy ghép bộ phận cơ thể, và được sử dụng để điều trị các chứng bệnh tự miễn dịch nghiêm trọng do quá trình viêm gây ra. Các chứng rối loạn này bao gồm bệnh viêm thấp khớp (rheumatoid arthritis: viêm khớp dạng thấp, bệnh phong thấp), bệnh luput ban đỏ toàn thân (systemic lupus erythematosus), bệnh tiểu đường (đái tháo đường), bệnh đa sơ cứng mô não và tủy (multiple sclerosis), bệnh Crohn, và viêm ruột kết mãn tính (ulcerative colitis).
Các Yếu Tố Nguy Cơ Gây Bệnh Zona ở Trẻ Em. Mặc dù thường xảy ra nhiều nhất ở những người thành niên, nhưng bệnh zona (giời leo, giời ăn, giời bò) thỉnh thoảng cũng phát triển ở trẻ em. Các trẻ em với hệ miễn dịch bị suy yếu sẽ có nguy cơ cao nhất. Các trẻ em với hệ miễn dịch khỏe mạnh, nhưng đã từng bị bệnh thủy đậu (đậu mùa, trái rạ) trước 1 tuổi, cũng có nhiều nguy cơ mắc bệnh zona.
Nguy Cơ Tái Phát Bệnh Zona. Bệnh zona (giời leo, giời ăn, giời bò) có thể tái phát, nhưng nguy cơ này là khá thấp (khoảng 1 – 5%). Có chứng cứ cho thấy rằng, cơn phát bệnh zona đầu tiên sẽ giúp tăng cường hệ miễn dịch để ngăn ngừa một cơn phát bệnh khác.
Tất cả các virut herpes đều có chung một số đặc điểm, bao gồm một dạng các triệu chứng hoạt tính, theo sau đó là các trạng thái ẩn mà có thể kéo dài nhiều tháng, nhiều năm, hoặc thậm chí suốt đời.
0 comments:
Post a Comment